“…Ca ngợi lòng hiếu trung với Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho nên Hồ
Chí Minh không bao giờ cáo buộc Trung Quốc vi phạm lãnh thổ và lãnh hải, một
hình thức dâng hiến Việt Nam…”
Cái bóng của chiến tranh không hề che khuất những mâu thuẫn giai cấp
trong lòng các xã hội Cộng Sản. Quốc tế cộng sản phải cướp chính quyền để cai
trị. Họ cũng chưa bao giờ thúc đẩy Việt Nam đi tìm một hòa bình thật sự.
Chính
Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông đã tìm cách thay đổi lịch sử bằng cách cướp đất
nước Việt Nam. Hồ Chí Minh chính là chiếc cầu nối để biến Việt Nam thành chư hầu
của Trung Quốc. Hồ Chí Minh sáng lập Cộng sản Việt Nam và tự phong cho mình
danh hiệu "cha già dân tộc" trước khi ông qua đời vào năm 1969. Hồ
Chí Minh từng nói với Chu Ân Lai rằng Liên Xô và Trung Quốc giống như một người
anh trai và em gái lớn, chia sẻ một người em Việt Nam trên trường Quốc tế Cộng
sản. Họ Hồ than phiền cũng vào thời điểm đó sự rạng nứt trong phong trào Cộng sản
toàn cầu giữa Trung Quốc và Liên Xô khiến cho đàn em Việt Nam đau buồn khôn xiết.
Công cuộc cách mạng của Hồ Chí Minh chú ý trên hai mặt khí tài và
nhân lực liên quan chặt chẽ đến từ Trung Quốc và Liên Xô. Ông và các nhà lãnh đạo
Cộng sản Trung Quốc sống chung trong một gia đình Cộng sản. Mao Trạch Đông, Lưu
Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình là những "tình đồng chí và tình anh
em". Họ Hồ là một người Hán thông lầu thơ phú văn học Trung Quốc, nói tiếng
địa phương Quảng Đông, và ông đã chui được vào Việt Nam bằng con đường phối trí
của Hoa Nam.
Năm 1950, ĐCSTQ gửi khí tài và nhân lực giúp Hồ Chí Minh trong cuộc
cướp chính quyền và kháng chiến chống Pháp. Trần Canh (Chen Geng-陳賡) là người đầu tiên được Trung Cộng đưa vào Việt Nam, để giúp CVSN
trong cuộc chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh đã viết một bài thơ Trung Quốc tặng
cho ông ta:
"義兵壯氣吞牛斗,
誓滅豺狼侵略軍"
(Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu,
thệ diệt sài lang xâm lược quân)
Hồ Chí Minh thường làm thơ để lên án bọn xâm lược Pháp và ngày nay
thơ này trở thành một trớ trêu lịch sử vì nó cũng có thể áp dụng lên chính
Trung Cộng. Ca ngợi lòng hiếu trungvới Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho nên Hồ Chí
Minh không bao giờ cáo buộc Trung Quốc vi phạm lãnh thổ vàlãnh hải, một hình thức
dâng hiến Việt Nam. Vì ông có nguồn cội rễ Hán, bờ vực thuốc súng Việt-Trung
không còn, ngày nay chỉ còn mối quan hệ chư hầu.
Kết quả, Việt Nam đã không còn khả năng cạnh tranh phát triển kinh
tế trong khu vực Đông Nam Á. Đây là tốc độ cực kỳ nhanh chóng sẽ bị lệ thuộc
kinh tế Trung Quốc. Trong những năm gần đây Việt Nam kiệt quệ vì một trăm triệu
người thiếu công cụ sản xuất, xã hội thiếu kiến thức lao động và kỹ thuật phân
phối công ăn việc làm. Dù có nguồn nhân lực dồi dào nhưng không xây dựng được đất
nước phồn vinh bởi vì họ chỉ là thành phần tiêu thụ kém, không thu hút nhiều đầu
tư nước ngoài. Trong khi ấy, ngày nay thế giới đã toàn cầu hóa một phần quan trọng
trong chuỗi sản xuất, đó là nguyên nhân chính chế độ Cộng sản thiếu khả năng vận
hành đất nước đã hơn 70 năm qua.
Việt Nam và Trung Quốc đều phải đối mặt với sự phát triển kinh tế
nhanh chóng trong xung đột giai cấp sắc nét, tầng lớp lao động có thu nhập thấp,
phúc lợi từ các khu vực nông thôn đã kém biến thành gương mặt lao động tha
phương.
Việt Nam phải hứng chịu đựng đau đớn và nhục nhã vì họ buộc phải
buôn người theo diện "hôn nhân". Thiếu nữ Việt đã trở thành "cô
dâu Việt" trải rộng khắp đại lục Trung Quốc, Đài Loan, Nam Hàn. Họ kết hôn
với một ngôn ngữ và cá nhân không cùng văn hóa. Kinh tế buôn người do họ chủ
trương lại được người dân xem đó là số phận. [1]
Các nhà chức trách Việt Nam làm một tác động giả, tạo chơi
trò "thẻ ý kiến" về tranh chấp chủ quyền biển Đông, để gây áp lực lên
Trung Quốc, chủ yếu để tìm tiền và quyền. Họ hy vọng mong đợi kích thích do sự
bất bình lao động, nắm lấy cơ hội để phá hoại, tạo ra các tình huống khó kiểm
soát đất nước, cũng làm cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tan rã niềm tin, để
rồi tất cả rơi vào bẫy và lọt vào trong guồng máy khống chế của Trung Cộng. Dù
Việt Nam có cố thủ hay tấn công cũng bị tổn thương nặng nền về biên giới, lãnh
thỗ, lãnh hải, biển Đông và kinh tế.
Công nhân Việt Nam và Trung Quốc, nhìn chung, họ không quan tâm
nhiều đến giàn khoan dầu biển, họ chỉ biết đến phúc lợi xã hội thiết thân của họ.
Họ xa lánh những lời cam kết và hứa hẹn của Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông với
giai cấp công nhân thuở ban đầu khi thành lập nước Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc
và nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đến nay họ đã có suy nghĩ mới vì họ thấy xã
hội Việt Nam tồi bại và quốc nạn tham nhũng tràn lan.
Huỳnh Tâm
Paris 29/2/2016
Tham khảo.
[1] http://zshgk.blogspot.fr/2014_05_27_archive.html