“…Tháng 10 năm 1940, Hồ Tập Chương đến Quế Lâm, cùng ngày triệu tập Phùng Chí Kiên, Vũ Anh,
Hoàng Văn Hoan (黃文歡), Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Liễu Châu, đưa ra đề nghị
giới thiệu Trương Bội Công (Zhang Peigong) gia nhập Việt Minh…”
Trung Cộng thành lập trung tâm bí mật Việt Minh [1]
Tháng 9 năm 1939 trung tâm du kích một; kết thúc khóa huấn luyện tại
Bát lộ quân (VIII Route Army Quế Lâm). Đến tháng 12 năm 1939, các cơ sở Bát lộ
quân thành lập thêm trung tâm huấn luyện thứ hai tại Quý Dương, Hồ Tập Chương với
tư cách chỉ huy trưởng trung tâm. Ông thường xuyên dạy cho khóa sinh tiếng Việt,
tiếng Hẹ và tiếng Pháp, đôi khi ông phát tiền cho khóa sinh chi tiêu vặt, cộng
với cải thiện phần ăn tối. Đầu năm 1940, Hồ Tập Chương vẫn còn làm việc trong
quân đội Bát lộ quân, trụ sở tại thôn Hồng Nham, Trùng Khánh. Ở đây Chu Ân Lai
với Diệp Kiếm Anh trực tiếp âm mưu, lập kế hoạch đưa Hồ Tập Chương vào miền Bắc
Việt Nam.
Tháng 2 năm 1940, Hồ Tập Chương đến Côn Minh, theo kế hoạch của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, sấp xếp lại "bộ phận ở nước ngoài" được gọi là Đảng
Cộng sản Việt Nam, kết nối với đường dây Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập
từ lâu tại Côn Minh, nay được lệnh người Trung Quốc ở nước ngoài gia nhập
"Việt Minh" một tổ chức mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Trước năm
1939, Đảng Cộng sản Đông Dương do Trung Cộng thành lập trụ sở chính tại Côn
Minh, gọi tắt là "Việt Minh Hải Ngoại", Phùng Chí Kiên (bí danh Lão
Lý) đứng đầu lãnh đạo, ngoài ra ông còn có những bí danh Mạnh Văn Liễu, Lý
Đông, Như Bách, Nguyễn Hào, tên khai sinh Nguyễn Vỹ 1900 và chết 1941, cùng những
người lãnh đạo Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải-Zheng Donghai), Hoàng Văn Hoan
(bí danh Lý Quang Hoa-Liguanghua).
Tháng 5 năm 1940, Hồ Tập Chương đi thanh tra Đường sắt Việt Nam-Côn
Minh, bí mật gặp Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt-Lin Bojie), Võ
Nguyên Giáp (bí danh Dương Hoài Nam) tại Công viên Thúy Hồ (翠湖公園). Trung Quốc sắp xếp cho họ ở lại trụ sở "Việt Minh Hải Ngoại".
Hồ Tập Chương (bí danh Lão Trần-老陳), đề nghị Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp thành lập trụ sở đảng Đông Dương tại Việt Nam, Hồ quyết định gửi Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến Diên An (Yan'an) huấn luyện cán bộ du kích, đào tạo
chính trị. Vào đầu tháng 6, Cao Hồng Lĩnh (bí danh Việt) dẫn đường đưa lối Phạm
Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đến Văn phòng Quý Dương, cấp phát thông hành đi Diên
An, khi ấy Khang Sinh (Kang Sheng) chủ trì viện nghiên cứu "Trung tâm chiến
tranh Tây Nam".
Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm
Ngày 10 tháng 5 năm 1940, Hồ Tập Chương trả lại Quế Lâm, hướng dẫn
Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, cũng đi
đến Liễu Châu và sau đó đi Quế Lâm. Hồ Tập Chương bí mật gửi Hoàng Văn Hoan, Vũ
Anh vào văn phòng Bát lộ quân. Nơi đây được xem là trụ sở đảng Cộng sản Việt
Nam đầu tiên, thiết lập nền tảng sức mạnh tổ chức đảng. Tiếp theo Trung Cộng
thành lập thêm văn phòng "Việt Minh" tại Quế Lâm (Guilin), chọn Hồ Tập
Chương làm Giám đốc, Phạm Văn Đồng Phó Giám đốc. Hồ Tập Chương sắp xếp Hoàng
Văn Hoan đứng tên kết nạp Lợi Chí Phàm (Li Chi-Fan), và Lý Tể Thâm (Li
Chi-shen) gia nhập "Việt Minh".
Ngày 12 tháng 8 năm 1940, Trung Cộng thành lập trụ sở Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Quế Lâm, có tư cách pháp lý hoạt động mở. Dưới hình thức "Việt
Minh" hoạt động theo lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi hoạt động thông
qua quan hệ giữa Hồ Tập Chương và các văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, vì vậy họ
có những liên hệ rộng rãi với cộng đồng Việt Nam. Trung Cộng thành lập hội đồng
"Văn hoá Việt Nam", Hồ Tập Chương (HCM) được bầu làm giám đốc. Sau
đó, sử dụng sức mạnh, mở cửa cho công chúng sinh hoạt chung với tổ chức
"Việt Minh", Trung Cộng hỗ trợ mọi chiến dịch của Việt Cộng đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm
Ngày 27 tháng 6 năm1940, quân Hitler (Đức Quốc Xã) chiếm được thủ
đô Paris nước Pháp. Ngày 22 tháng 9 năm 1940, bổ nhiệm Jean Decoux làm Toàn quyền Liên
bang Đông Dương và đảo ngược chính sách nhượng bộ đối với Nhật Bản, thực tế
chính trị buộc ông phải tiếp tục theo con đường của người Toàn quyền tiền nhiệm
ông Georges Catroux. Nói chung, phục tùng bởi các thị trấn Nam Quan của Nhật Bản
để tiếp cận Hải Phòng. Trung Cộng nhận thức được rằng tình hình này sẽ có tác động
đến sự phát triển Việt Minh tại Việt Nam và Đông Dương, sau đó tổ chức mở cuộc
họp tại trụ sở "Việt Minh Trung Quốc", Mao Trạch Đông lấy quyết định
chuyển Việt Minh đến trung tâm khu vực biên giới của tỉnh Quảng Tây, sau đó tiến
vào Việt Nam. Mao Trạch Đông đồng ý chỉ thị Hồ Tập Chương lãnh đạo trực tiếp cuộc
đấu tranh vũ trang. Cùng lúc Quân ủy Trung ương Trung Cộng lấy quyết định đồng
ý Hồ Tập Chương từ Côn Minh đến Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai, trao đổi quan điểm
về tình hình Việt Nam hiện nay, một tháng sau đó Hồ Tập Chương quay trở lại Côn
Minh. Tại thời điểm này "Văn phòng trụ sở đảng vẫn ở Trung Quốc". Văn
phòng Việt Minh tại Quế Lâm đã nhận được chỉ thị của Lợi Trí Trung (利智忠) cho biết Đại Tá Tham Mưu Hồ Học Lãm (胡學覽) thay mặt Hội đồng Quân sự Việt
Nam, hiện chỉ huy 4 quân đoàn ở Liễu Châu, Trương Bội Công (Zhang Peigong-張佩公) nhận được chỉ thị của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, chuyển quân đội
vào Việt Nam để làm các công việc chuẩn bị có liên quan kết thúc chiến tranh.
Trương Bội Công tuyển dụng nhiều công dân Việt Nam ở khắp mọi nơi trên đất nước
Trung Hoa, tổ chức đội biên giới Trung-Việt. Hồ Học Lãm đề nghị Trương Bội Công
tiến hành duyệt lại trụ sở đảng ở Quảng Tây và Côn Minh.
Hồ Tập Chương cho rằng đã đúng lúc thuận lợi, quyết định chỉ thị Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, lập tức chuyển "trụ sở Việt Minh Trung Quốc" đến Quảng Tây. Ngoài ra tiếp nhận thông báo từ Quý Dương (Guiyang) chờ đợi Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến từ Diên An. Hồ Tập Chương trở về Quảng Tây chỉ huy "Việt Minh" chuyển quân đến Quế Lâm, tạm đóng quân tại Bát lộ quân Quế Lâm, chuẩn bị vạch ra chiến lược hoạt động tại Việt Nam, thành lập các vùng căn cứ cách mạng, làn sóng mới mở cuộc đấu tranh vũ trang cho phép "Việt Minh" tràn quân qua đất nước Việt Nam.
Trương Bội Công (Zhang Peigong-張佩公). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Tháng 10 năm 1940, Hồ Tập Chương đến Quế Lâm, cùng ngày triệu tập
Phùng Chí Kiên (Fung Chi-kin-馮志堅), Vũ Anh (Wu Ying-武英), Hoàng Văn Hoan (黃文歡), Phạm Văn Đồng (范文同), Võ Nguyên Giáp (武元甲) tại Liễu Châu, đưa ra đề nghị
giới thiệu Trương Bội Công (Zhang Peigong) gia nhập Việt Minh. Ngày 08 tháng 12
năm 1940, Cộng sản Việt Nam, với tư cách pháp lý hoạt động thông qua các lãnh đạo
"Việt Minh", quan hệ giữa Hồ Tập Chương và văn phòng Bát lộ quân Quế
Lâm rất chặt chẽ.
Ngày 23 tháng 12 năm 1940, Hồ Tập Chương di chuyển quân đến khu vực
biên giới Việt Nam-Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam với sự hỗ trợ của Văn phòng Bát
lộ quân Trung Cộng, ở đây củng cố cơ cấu tổ chức "Việt Minh" dưới sự
điều hành của "Trung-Việt văn hóa đồng chí hội"[2], tích cực
tạo môi trường thuận lợi cho Đảng Cộng sản Việt Nam và các thành viên hoạt động
tại trụ sở đảng ở Trung Quốc. Trung Cộng là nguồn động lực thúc đẩy Cộng sản Việt
Nam, tạo cơ hội thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng. Trong khi đó, chính
quyền Pháp, Nhật và Việt Minh đối đầu nhau tại Lạng Sơn. Sau này có cuộc bạo loạn
ở Bắc Sơn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan di chuyển quân đến huyện
Tĩnh Tây (Jingxi) tỉnh Cao Bằng giáp Quảng Tây. Cuối tháng 12 năm 1940 thành lập
"Ủy ban Giải phóng Quốc gia Việt Nam" tại Liễu Châu. Trong tháng 12
năm 1940 tại huyện Tĩnh Tây, chính thức thành lập thêm lực lượng thứ hai "Ủy
ban Giải phóng Quốc gia Việt Nam", đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi tất cả
các dân tộc Việt Nam chiến đấu, thoát khỏi Pháp, Đế quốc Nhật Bản, chế độ
nô lệ và xâm lược. Sau khi ra đời, "Ủy ban Việt Nam Giải phóng Quốc
gia" tìm mọi cách lấy lòng tin của Trương Bội Công (张佩公) nhờ ông cung cấp tài chánh nhưng không được, (trong những bài tiểu
luận nói về huyện Tĩnh Tây, ĐCSVN vẫn còn sử dụng các mối quan hệ Trương Bội
Công (张佩公) và Quốc Dân Đảng Trung Quốc). Cho nên Việt Minh muốn có tài
chánh phải đánh cướp công quỹ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, để có phương tiện
Việt Minh âm thầm đào tạo tổ chức cán bộ trẻ, sau khi đào tạo cán bộ cấp cơ sở
kết quả gửi về Việt Nam chiến đấu.
Đầu năm 1941, các thành viên "Ủy ban Quốc gia Giải
phóng" của Hồ Tập Chương được chia thành hai nhóm. Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan vẫn bám trụ tại Tĩnh Tây (Jingxi). Phùng Chí
Kiên (馮志堅), Vũ Anh (Wu Ying-武英), Lê Quảng Ba (Li
Guangbo-黎廣波) chuyển đến tỉnh Cao Bằng phát triển cơ sở tại dốc phía Bắc của
ngôi làng Pắc Bó.
Ngày 20 tháng 2 năm 1941, đánh dấu một trang lý lịch mới của Hồ Tập
Chương, ông chính thức đổi tên là Hồ Chí Minh bí danh (ông Thu), tạm sống tại Pắc
Bó gần một con sông của ngôi làng miền núi huyện Tĩnh Tây, tỉnh Cao Bằng, tất cả
cư dân sinh sống ở đây là người Nùng. Lần đầu tiên Hồ Chí Minh đến Việt Nam, trực
tiếp lãnh đạo phong trào Cộng sản Đông Dương và Việt Nam.
Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) bên suối Lê Nin thăm nhân dân Pắc Bó. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngày 12 tháng 4 năm 1941, chính thức thành lập "Liên minh Tự
do Quốc gia Việt Nam" bao gồm các tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Dân
chủ Xã hội Việt Nam, và Việt Minh. Sau khi thấy tình hình thích hợp, Hồ Chí
Minh lập tức thành lập mật khu "Giải Phóng Quốc gia Việt Nam" xây dựng
cơ quan bí mật Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày 10 tháng 5 năm 1941, Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp Trung ương
Cộng sản Đông Dương lần thứ tám tại Việt Bắc, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp,
thành phần tham dự gồm có Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh tên thật Đặng Xuân Khu
(bí danh Vũ Văn Cừ), Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Hoàng Quốc
Việt. Việt Minh mở ra cuộc họp chủ yếu thiết lập và phát triển các căn cứ mật
khu và căn cứ du kích quân, Hồ Chí Minh cho thành hình 16 tổ chức dưới quyền
lãnh đạo "Hội đồng Cứu quốc".
Ngày 19 tháng 5 năm 1941, thành lập "Mặt trận Độc lập Việt
Nam", được gọi là "Liên Minh". Trong hội nghị HồChí Minh được bầu
làm tổng bí thư của đảng, lãnh đạo trực tiếp cách mạng Việt Nam. Nhưng Hồ Chí
Minh từ chối, viện lý do rằng các lãnh đạo đảng trong nước điều hành tổng bí
thư của đảng. Chương trình hành động của "Việt Minh" quy định mục
tiêu đấu tranh cho Việt Nam: "Lật đổ Pháp, phù hợp với tinh thần dân chủ của
Chính phủ cách mạng nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, và sử dụng Kim Tinh (Venus-金星) nền đỏ làm cờ quốc gia".
Huỳnh Tâm
Tham khảo :
[2] (中越文化工作同志會– Trung Việt văn hóa công tác đồng chí hội)