Giải mã nhân vật Hồ Chí Minh - Kỳ 23/27 (Huỳnh Tâm)

"...Năm 1967, tình trạng thể chất của Hồ Chí Minh xấu đi, đặc biệt Liên Xô và Trung Cộng chú ý các chương trình điều trị cho Hồ, cá nhân Chu Ân Lai lựa chọn bốn đội ngũ y tế nổi tiếng nhất Trung Quốc liên tiếp đến Hà Nội..."
Việt Cộng-Trung Cộng thỏa thuận cướp lân bang, Hồ Chí Minh thừa nhận "Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc"

Từ thời cổ đại Việt Nam đã có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và quyền tài phán, sớm nhất 1000 năm trước vào thời đại nhà Trần-Lê, bắt đầu quản lý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, vào 450 năm trước nhà Nguyễn với thẩm quyền quản lý bao gồm những quần đảo ở Biển Đông, những triều đại trước tiếp tục gửi ghe thuyền tuần tra trên Biển Đông, nhiều cuốn sách bản đồ địa lý, lịch sử, tài liệu đã chứng minh và người dân đặt tên tiếng Việt cho Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 27 tháng 5 năm 1955. Đại hội bí mật của hai đoàn BCTƯ/Trung Cộng-Việt Cộng ghi lại lịch sử đại hội cướp nước Việt Nam, chụp ảnh lưu niêm "ngày cướp nước Việt Nam và Biển Đông".
Hàng phía trước từ bên trái sang phải: Phạm Ngọc Thạch (范玉石), Ung Văn Khiêm (Yong Wenqian (雍文谦), Lý Tể Thâm (Li Chi-shen李济深), Nguyễn Văn Xuân (阮文煊), Chu Ân Lai (周恩来), Lê Văn Hiến (黎文献), Chu Đức (Zhu De朱德), Hồ Chí Minh (胡志明), Mao Trạch Đông (毛泽东). Trường Chinh (长征), Lưu Thiếu Kỳ (刘少奇), Phan Anh (Pan Ying潘英), Trần Vân (Chen Yun陈云), Trầm Quân Nho (Shen Jun-ru沈钧儒), Nghiêm Xuân Am (严春菴), Nguyễn Duy Trinh (阮维祯), Hoàng Văn Hoan (Huang Wen Huân黄文欢), La Quý Ba (Luo Guibo罗贵波).
Hàng phía sau từ trái sang phải: Cơ Bằng Phi (Ji Pengfei姬鹏飞), Dương Tú Phong (Yang Xiufeng杨秀峰), Đằng Đại Viễn (滕代远), Trương Văn Thiên (张闻天), Lý Tiên Niệm (Li Hsien-nien李先念), Hoàng Viêm Bồi (Huangyanpei黄炎培), Bành Chân (Peng Zhen彭真), Đồng Tất Vũ (Đồng Bi-wu董必武), Lâm Bá Cừ (Lin Boqu林伯渠), Bành Đức Hoài (Peng彭德怀), Đặng Tiểu Bình (邓小平), Hạ Long (贺龙), Lý Phú Xuân (Li Fuchun李富春), Trần Nghị (Chen Yi陈毅), Bạc Nhất Ba (Bo Yibo薄一波), Vương Gia Tường (王稼祥), Hiệp Quý Tráng (Ye Jizhuang叶季壮).
Lưu ý: 26 tên mặc áo đại cán người của Trung Cộng, còn lại 9 tên mặc "Comple Veston" người của Việt Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.

Ngày 14 tháng 11 năm 1961, Mao Trạch Đông gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng (bên phải) và Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị (Lý Qingyi-黎清毅). Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.

Thực tế, trước khi Việt Nam thống nhất đất nước vào năm 1975, "Bác đảng" đã dâng lãnh thổ cực đông của Việt Nam, kinh độ Đông 109 độ 30 phút và tuyên bố thừa nhận Trường Sa-Hoàng Sa của Trung Cộng. Tại thời điểm đó, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam loan tải trên Nhật báo Nhân Dân toàn bộ bản đồ, xuất bản sách giáo khoa chính thức công nhận quần đảo Trường Sa-Hoàng Sa thuộc lãnh thổ lãnh hải Trung Quốc. [1]
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ung Văn Khiêm (Yong Wenqian -雍文谦) đến Lãnh sự quán Trung Quốc tại Hà Nội gặp Đại diện lâm thời Lý Chí Dân (Li Zhimin-李志民) dâng biển Đông: Theo báo cáo của Việt Nam, về mặt lịch sử, quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc, sau đó Quyền Vụ trưởng Vụ Châu Á tại Việt Nam Lê Lộc (Li Lu-黎禄) phát biểu vô căn cứ: "Từ điểm lịch sử, quần đảo Trường Sa-Hoàng Sa vào thời nhà Tống đã thuộc về Trung Quốc."
Ngày 04 tháng 9 năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã ban hành chiều rộng lãnh hải 12 hải lý, áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả các đảo ở Biển Đông. Ngày 06 tháng 9, Việt Nam và tờ Nhân dân Nhật báo loan tải chi tiết theo báo cáo này.
Chu Ân Lai chính thức đưa ra một thư tín ngoại giao, cho biết bức thư của Chính phủ Việt Nam vào ngày 14 tháng 9, do Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng (đã ký), công nhận một cách rõ ràng, quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa của lãnh thổ Trung Quốc đã có từ thời cổ đại.
Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý, Phụ lục 12 hải lý của Trung Quốc, Hồ lấy quyết định cho Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành sách giáo khoa địa lý, năm 1974 bắt đầu phổ biến trong trường phổ thông, từ đó "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", chính thức thành lập quận đảo Nam Sa, quận đảo Tây Sa do đảo Hải Nam quản lý..., tạo thành một hệ thống quốc phòng Vạn Lý Trường Thành trong đại lục của Trung Quốc.
Kể từ năm 1975, Việt Nam không có thái độ thay đổi triệt để nào. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước đường biên giới trên bản đồ đã xuất bản, cho thấy biên giới di chuyển về phía đông chín (9) kinh độ đến 118 độ kinh độ Đông. Theo sự phân chia này, quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã được chỉ định là lãnh thổ của Trung Quốc. Từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 11 năm 1991, Việt Nam đã có tổng cộng chiếm đóng 29 đảo nhỏ trên quần đảo Hoàng Sa. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành hành chính trên những đảo trong vùng quần Hoàng Sa, và việc triển khai kiểm soát quân sự, tăng cường cơ sở hạ tầng của các rạn san hô bị chiếm đóng và tăng cường khả năng bảo vệ những rạn san hô còn lại, đồng thời đẩy mạnh khai thác dầu mỏ và các nguồn tài nguyên khí đốt.
Trong tháng 9 năm 1979 và tháng 1 năm 1982, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố sách trắng chủ quyền đầy đủ và yêu sách Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. [2]
Hơn 30 năm trước đây dư luận quốc tế đã đề cặp đến những ấn phẩm địa lý lãnh thổ của Trung Quốc phát hành không đúng sự thật trên biển đông, trong khi đó quần đảo Hoàng Sa đương thuộc về Việt Nam. Theo nguồn Hồng Kông, "Far Eastern Economic Review," ghi nhận vào năm 1971, Cao ủy Anh tại Singapore, cho biết: "Các đảo Trường Sa (tham khảo South Island) là thuộc địa của Việt Nam, một phần của tỉnh Quảng Ngãi, Khánh Hòa Việt Nam. Chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng Biển Đông vẫn thuộc hoàn toàn của Việt Nam, nếu biển đông bị mất, nói trắng hơn Đảng Cộng sản Việt Nam dâng cho quan thầy Trung quốc.
Tháng 9 năm 1933, theo tạp chí "thế giới Colonial" xuất bản tại Pháp, loan tải các tàu chiến Pháp "Ma Li Hughes" đóng quân trên quần đảo Hoàng Sa gặp bốn thường dân Việt Nam đang sinh cư tại đây.
Năm 1961, tạp chí "thế giới Columbia Lippincott Gazetteer," xuất bản tại Hoa Kỳ, loan tải Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một phần của lãnh hải Việt Nam."
Năm 1963 "Bách khoa toàn thư Worldmark" xuất bản tại Mỹ cho biết: Quần đảo của Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm mở rộng đến 4 độ vĩ bắc, gồm các đảo trên biển Đông và các rạn san hô.
Năm 1971, Hoa Kỳ xuất bản "Bách khoa toàn thư phân chia thế giới" loan tải chi tiết hơn: "Việt Nam Cộng Hòa bao gồm có một số hòn đảo, trong đó lớn nhất là đảo Hoàng Sa, Trường Sa, gần bờ biển phía nam của Biển Đông bao gồm một số đảo và đá ngầm khác, có đoạn xa nhất tới 4 độ vĩ bắc, bao gồm quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa".
"Niên lịch Trung Quốc", xuất bản năm 1966, ghi rằng: "đường ven biển tỉnh Liêu Đông Trung Quốc, từ Bắc đến quần đảo Trường Sa có khoảng 11.000 km, cộng đường bờ biển với các đảo ngoài khơi, lên đến 20.000 km." Vào năm 1972 "World Almanac" cũng cho biết: "Ngoài khơi phần đất liền của lãnh thổ Trung Quốc, gồm đảo Hải Nam, Đài Loan có đảo Bành Hồ, Đông Sa, quần đảo Trường Sa, và quần đảo Hoàng Sa tại biển Đông." Cho thấy Trung Quốc đã có tham vọng muốn chiếm hết Biển Đông.

Ngày 14 tháng 9 năm 1958 tại Hà Nội, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã đưa ra một văn thư ngoại giao chính thức gửi Thủ tướng Chu Ân Lai. Trong văn thư này, phía Việt Nam công nhận một cách rõ ràng, "quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc" cho rằng đã có từ thời cổ đại. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Phạm Văn Đồng (đã ký và đóng dấu). Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. [3]

Hai nhà lãnh đạo Cộng sản Việt-Hoa (Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông) đàm luận Biển Đông).

Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai viếng thăm Moscow, Hồ Chí Minh tiễn chân đến một chặn đường biên giới Trung-Xô, đề nghị nhờ chuyển lời ngoại giao đến những nhà lãnh đạo Liên Xô. January 30, chính phủ Liên Xô công bố chính thức thành lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh đến một căn cứ bí mật để đi bộ từ biên giới Việt Nam, đến Nam Ninh và kết thúc hành trình tại Bắc Kinh, đầu tiên Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ đón tiếp. January 18, tại ga biên giới Quảng Tây, Hồ Chí Minh nghe được bản tin Tân Hoa Xã phát sóng "Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam".

Từ năm 1954 đến 1959, tại miền Bắc Việt Nam, lãnh đạo đảng bởi Hồ Chí Minh, sau năm năm xây dựng hoàn thành cơ bản chuyển đổi xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội song song với Trung Quốc, Nhờ vậy tình báo Hoa Nam thường vinh danh cách mạng Mao Trạch Đông, phong cách Hồ Chí Minh.


Những năm 1960, Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông có cuộc họp giải quyết vấn đề Liên Xô, Hồ Chí Minh tuyên bố mối quan hệ thân mật với Liên Xô đã đi đến kết thúc, làm đẹp lòng họ Mao.

Năm 1965, Hồ Chí Minh đến phía bắc Trường Sa (Hồ Nam) yết kiến Mao Trạch Đông, ông cho biết: Tôi đã đến thăm dân làng Tính Hồ (Xinghu-姓胡), và đã ở Hồ Nam vài ngày. Tôi và Mao Chủ tịch cùng đồng quê hương và cùng một tổ quốc Trung Hoa".
Mao Trạch Đông nói: "Bạn đến thăm Tính Hồ, tất nhiên là người Trung Quốc, ở đây bạn muốn cung cấp bất cứ điều gì cũng có thế chấp nhận theo đề nghị. Tuy nhiên bạn phải thực hiện cuộc Cách mạng Văn hóa, bởi bạn là người khởi tạo đất nước Việt Nam".

Những nhà lãnh đạo Trung Cộng đều có liên quan mật thiết với Hồ Chí Minh, liên hệ chặt chẽ nhất là Chu Ân Lai, quan hệ của họ không bình thường, đứng trên lập trường "Tình đồng chí, tình anh em".

Năm 1954, khởi động Hội nghị Genève, Pháp có trạng thái tĩnh tâm, chọn vĩ tuyến 17 đường độ làm đường ranh giới quân sự chia Việt Nam thành hai miền. Chế độ miền Nam bất bình rất lớn, nhưng muốn đình chiến càng sớm càng tốt để làm điểm dừng chân chiến tranh.
Do đó Hồ Chí Minh kích hoạt sự can thiệp của Mỹ. Trái lại miền Nam không đồng ý sự can thiệp của Trung Cộng và Liên Xô vào miền Bắc Việt Nam. Trong giờ giải lao, Chu Ân Lai làm một chuyến đi đặc biệt trở lại Liễu Châu Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh, ông hy vọng sẽ thuyết phục Hồ Chí Minh. Cuối cùng, các thỏa thuận đạt được tại cuộc họp Genève quyết định lấy dòng vĩ độ 17 làm cơ bản để phân chia hai miền Việt Nam.

Cuối tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh đi đến Trùng Khánh theo lệnh của Mao Trạch Đông để tiếp nhận tài liệu mật, kết hợp với rất nhiều tài liệu đã hết hạn kì và tham khảo viện trợ quân sự. Lý do đó dấy lên sự nghi ngờ của Quốc Dân Đảng, kết quả họ giam giữ họ Hồ. Chu Ân Lai thuyết phục Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek). Phùng Ngọc Tường (冯玉祥) nhận lệnh phóng thích Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù.

Chu Ân Lai hỏi Hồ Chí Minh: "Tại sao bị bắt, Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) vẫn là đồng minh của chúng ta đã từng đứng cùng một chiến tuyến chống Nhật Bản”. Thực ra Quốc Dân Đảng bắt Hồ Chí Minh tại ổ điếm trong khu vực nhà ga Quãng Tây.

Năm 1959, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đáp ứng yêu cầu của Hồ Chí Minh xin được phép tháp tùng tham dự Đại hội đảng Liên Xô. Mao Trạch Đông đồng ý, truyền lệnh cho Chu Ân Lai sắp xếp cho Hồ Chí Minh tạm trú ở Trung Nam Hải. Trong chuyến đi lần này rất đặc biệt, Hồ Tập Chương (HCM) chính thức đứng đầu lãnh đạo Việt Cộng đến Moscow.

Hồ Chí Minh cho biết: "Chỉ có tôi, có thể gọi Đặng Dĩnh Siêu là "Siêu nhỏ". Đặng Dĩnh Siêu với Hồ có những liên kết rất chặt chẽ, theo quá trình hoạt động chung đảng bộ.

Nhóm tư vấn ở Trung Quốc và Hồ Chí Minh (胡志明), Trần Canh (Chen Geng-陈赓), Lê Văn Lương (Li Wenliang-黎文良), La Quý Ba (Luo Guibo-罗贵波) tại cơ sở chiến khu phía Bắc Việt Nam.

Năm 1967, tình trạng thể chất của Hồ Chí Minh xấu đi, đặc biệt Liên Xô và Trung Cộng chú ý các chương trình điều trị cho Hồ, cá nhân Chu Ân Lai lựa chọn bốn đội ngũ y tế nổi tiếng nhất Trung Quốc liên tiếp đến Hà Nội.
Vào năm 1969 bệnh của Hồ trầm kha đến hồi kết thúc một người Hán trên đất nước Việt Nam, dù những bác sĩ Trung Quốc vẫn muốn cứu sống nhưng đã hết hy vọng. Trước khi Hồ Tập Chương qua đời để lại cho Việt Nam một xã hội chiến tranh biển người, hơn 1.7 triệu nhân dân miền Bắc chết đói và "Cải cách ruộng đất 1953-1956", hơn 1.5 triệu thanh niên "sinh Bắc tử Nam".
Huỳnh Tâm

Tham khảo: