“…Ông còn nhấn mạnh Việt Nam phải cúi đầu trung thành với Trung Quốc
đúng nghĩa một chư hầu vạn thế lưu phương, đến giờ chết Hồ Chí Minh mới nói sự
thật gốc gác của mình là con dân nhà Hán…”
Mao Trạch Đông, Hồ Tập Chương (Hồ Chí Minh) "đồng chí và anh
em"
Mao Trạch Đông tự ví mình "nhà lãnh đạo tuyệt vời" và
"giáo sư cách mạng của nhân dân Trung Quốc", cá nhân Hồ Tập Chương
cũng không thua kém tự đề cao mình "Cha già dân tộc Việt Nam" và
"cô giáo thay đổi tư duy người Việt Nam". Những họ đem lịch sử quốc
gia gắn liền với con người Cộng sản, tiến thân bằng những xảo thuật mánh khóe
cướp của người làm của ta.
Họ đã xâm chiếm lịch sử ngưỡng mộ của dân tộc, đưa đất
nước vào nguồn máy lạc hậu bị áp bức qua chế độ Trung Cộng và Việt Cộng, các
lãnh đạo chỉ biết khủng bố người dân bằng nhiều phương thức khác nhau để rồi
đưa cả dân tộc đến khuất phục, thông qua các cuộc đấu tranh dài và gian khổ làm
kiệt quệ tinh thần và trở nên hèn nhát. Chiêu bài Cộng sản ăn khách nhất trong
một xã hội kém văn minh thường thực hiện năm sách chống "chống chủ nghĩa đế
quốc", "chống phong kiến", "chống tiêu cực", "chống
quan liêu", "chống tham nhũng", cuối cùng Cộng sản lập lờ bản chất
của nó bởi năm sách chống đã trở thành kẻ nghiện của ngày nay. Cộng sản hướng dẫn
người dân đi trên con đường chủ nghĩa xã hội mơ hồ, cuộc đấu tranh cách mạng tự
thiêu, Quốc tế Cộng sản một tổ chức mafia hỗ trợ cho nhau, học hỏi lẫn nhau, họ
nguyên bản thân người Hán hay người Việt một lòng giả mạo "tình đồng chí
và tình anh em", tình hữu nghị cách mạng sâu sắc. Chỉ 30 năm trước đây, Hồ
Chí Minh đã nói: "Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, nhiều thế
kỷ để có một mối quan hệ gần gũi, tất nhiên, mối quan hệ giữa cách mạng Trung
Quốc và cách mạng Việt Nam cũng một đặc biệt gần gũi". Thực ra đây chỉ là
một câu nói kép của Đế quốc Cộng sản mà Hồ đang thực hiện nó.
Ngày 07 tháng 7 năm 1955, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam ký các thông cáo tại Bắc Kinh.
Hầu như Hồ Tập Chương cùng Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Mao Trạch
Đông và những người khác cũng đang tìm kiếm sự thay đổi chính trị quốc gia. Vào
tháng 7 năm 1921, khoảng sáu tháng sau khi Hồ Tập Chương gia nhập Cộng sản
Trung Quốc thành lập tại Thượng Hải. Mao Trạch Đông là người sáng lập đảng tham
gia Quốc hội Nhân dân đầu tiên. Kể từ đó, Mao Trạch Đông và Hồ Tập Chươngtrở
thành một lực lượng chung đấu tranh lâu dài tình đồng chí Cộng sản. Mặc dù họ
không gặp nhau, tin tức phổ biến trong nội bộ, việc theo đuổi mục tiêu lý tưởng
chung, họ liên kết chặt chẽ.[1]
Hồ Chí Minh có một bài viết nhớ lại kỷ niệm: "Về mặt cá nhân
của tôi, đã có hai thời kỳ vinh dự tham gia hoạt động Đảng Cộng sản Trung Quốc",
"năm 1924-1927, tôi đến Quảng Châu, theo dõi cuộc cách mạng Đảng Cộng sản
Trung Quốc, tôi lấy quyết định gia nhập bằng tinh thần hạnh phúc của đảng. Tại
thời điểm đó, Trung Quốc đang bùng nổ phong trào nông dân đã bắt đầu mở rộng, đặc
biệt là ở Hồ Nam (do đồng chí Mao Trạch Đông lãnh đạo)". "Để thúc đẩy
phong trào nông dân, Mao Trạch Đông thành lập Viện Phong trào nông dân mà tôi
đã tham gia nỗ lực tiếp cận cộng đồng".
Hồ Tập Chương (tức Hồ Chí Minh) ở Quảng Châu ngoài việc tích cực
tham gia vào lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng công nhân-nông
dân Trung Quốc, đảng giao phó co Hồ xây dựng Đảng Cộng Đông Dương. Ông tổ chức
"cuộc họp thanh niên đồng chí cách mạng", sáng lập văn hóa cách mạng,
và "huấn luyện đặc biệt về chính trị"; xuất bản tạp chí "Thanh
niên, lý luận cách mạng Mao Trạch Đông", mặt khác hướng dẫn đấu tranh cách
mạng bằng vũ trang.
Tại Quảng Châu những người Cộng sản Mao Trạch Đông (毛泽东, Chu Ân Lai (周恩来), Trương Thái Lôi
(Zhang Tailei-张太雷), Trần Diên Niên (陈延年), Lưu Thiếu Kỳ (刘少奇), Bành Phái (Peng Pai-彭湃), Lý Phú Xuân (Li
Fuchun-李富春), Đặng Dĩnh Siêu (邓颖超), được liên kết chặt chẽ. Qui
tụ khóa huấn luyện "chính trị đặc biệt" nằm trong vùng lân cận
"phong trào nông dân" thân Mao Trạch Đông, các khóa học không nấu ăn,
người tham gia tự túc. Họ trao đổi thường xuyên, liên quan chặt chẽ. Lưu Thiếu
Kỳ, Chu Ân Lai, và Lý Phú Xuân, lúc bấy giờ Bành Phái (Peng Pai-彭湃), lãnh đạo Việt Cộng. Vào năm 1961 Hồ Chí Minh tổ chức ngày lễ kỷ
niệm lần thứ 40 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông đã viết một bài báo ca ngợi
"cách mạng Trung Quốc và cách mạng Việt Nam", bài viết cho biết:
"Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và lý thuyết Mác-Lênin, chủ yếu là
thông qua Trung Quốc, sau đó mới đến Việt Nam".
Ngày 3 tháng 10 năm 1959, đảng và nhà nước lãnh đạo Trung Quốc Mao
Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, mời Hồ Chí Minh
tham dự lễ kỷ niệm 10 năm.
Năm 1926, lần đầu tiên Cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng hợp
tác chống Nhật Bản. Ngày 01-ngày 20 tháng 1, Quốc hội Nhân dân Quốc Dân Đảng
Trung Quốc tổ chức lần thứ hai tại Quảng Châu, Mao Trạch Đông đại diện Quốc Dân
Đảng Hồ Nam tham dự các cuộc họp đại diện Sở Tuyên truyền, Quốc Dân Đảng công
khai cho phép Hồ Tập Chương phát biểu, ông tố cáo những tội ác của thực dân
Pháp, kêu gọi người dân tăng cao đấu tranh, ủng hộ cách mạng nông dân Trung Quốc.
Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) tung
ra các cuộc đảo chính Quốc-Cộng, Trung Quốc đã bị bao phủ khủng bố trắng. Hồ Tập
Chương cũng đã buộc phải bì mật sống tại Quảng Châu, tham gia trong cuộc chiến
Quảng Châu Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo.
Cuối năm 1938, chiến tranh Quốc-Cộng nổ ra khắp Trung Quốc, Hồ Tập
Chương tạm sống Tân Cương, Tây An đến Diên An. Mao Trạch Đông và Ủy ban Trung
ương CPC thành lập các cơ quan hàng đầu của đảng tại Tảo viên. Ủy ban
Trung ương CPC tiếp nhận yêu cầu của Hồ Tập Chương, với khả năng của mình xin
phục vụ cho Đảng, đảng sắp xếp Hồ Tập Chương làm cán bộ trong Bát lộ quân, phía
Nam và Tây Nam. Vào thời điểm đó, Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) được Quốc
Dân Đảng mời vào quân đội Hành Dương chuyên đào tạo chiến tranh du kích. Hồ Tập
Chương đến Hành Dương gặp Diệp Kiếm Anh xin gia nhập quân đội, học hỏi kinh
nghiệm đấu tranh du kích chống Nhật, sự chân thành hợp tác chỉ có người Cộng sản
biết nhau hiểu ngầm. (cài gián điệp)
Ngày 10 tháng 6 năm 1961 đến 16, phái đoàn chính phủ Thủ tướng Việt
Nam Phạm Văn Đồng đến thăm Trung Quốc. 12 tháng 6, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi ngang qua Quảng trường Thiên An Môn, trong sự
chào đón nồng nhiệt của quần chúng.
Vào năm 1940, nước Pháp sụp đổ, ngay lập tức bộ phận nước ngoài do
Hồ Tập Chương phụ trách, triệu tập phân tích tình hình chung và đưa ra biện
pháp ứng phó, lấy quyết định tập trung quân đội Trung Cộng chuyển đến biên giới
Trung-Việt. Ông yêu cầu bộ phận cán bộ Việt Minh ở Trung Quốc, tụ tập về biên
giới Quảng Tây, tận dụng lợi thế điều kiện chính trị địa phương hoạt động ít
nghiêm ngặt, nơi đây có một số hoạt động hợp pháp. Hồ Chí Minh đến huyện
Long Châu (Longzhou) tham dự khóa đào tạo cán bộ tại Dốc Bắc
Cao Bình (Gaoping) biên giới Trung-Việt, bí mật chọn thành phần lãnh đạo
cách mạng; thành lập một trung tâm vận chuyển quân đội bí mật ở Tĩnh Tây
(Jingxi) xâm nhập Việt Bắc. Hồ Tập Chương gặp Hoàng Văn Thụ nhà lãnh đạo hàng đầuCộng
sản Việt Nam, sau khi bàn thảo đồng ý thành lập cơ sở Trung ương ĐCSVN tại Tĩnh
Tây.
Tháng 9 năm 1944 tại Dốc Bắc, Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Trong tháng 8 năm 1945 Nhật Bản đầu hàng, tại Hà Nội tổ chức các
hội nghị quốc gia để xác định tổng khởi nghĩa. Ngày 02 tháng 9, Hồ Chí Minh,
thay mặt Chính phủ lâm thời ban hành một "Tuyên ngôn Độc lập", công bố
sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam.
Vào thời điểm này, Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông rất ít trực tiếp
tiếp xúc, tuy nhiên, khi nói về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt
Nam, có điểm chung rõ ràng "chiến thắng cuộc kháng chiến của Trung Quốc
cũng tạo điều kiện tốt cho sự thành công của Cách mạng tháng Tám của Việt
Nam". Năm 1951, Đại hội đảng được tổ chức vào tháng 2, Hồ Chí Minh báo cáo
chính trị, cho biết: "dựa vào kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch
Đông phụ thuộc rất nhiều chiến thắng, chúng tôi đã đạt được", và "ca
ngợi Mao là "khôn ngoan và rất xứng đáng anh trai và người tôi".
Ngày 10 tháng 5 năm 1963, Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ thăm
chính thức Việt Nam tại sân bay Hồ Chí Minh chào đón nồng nhiệt.
Hồ Chí Minh trong bài phát biểu chào mừng của ông cho biết,
"cảm xúc sâu sắc, đồng chí và anh em." Trong thời gian chuyến thăm,
Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ với Hồ Chí Minh đã ban hành một tuyên bố chung thể hiện
dân tộc của họ với những niềm vui.
Mao Trạch Đông hỗ trợ hào phóng cho Việt Minh một tính toán tương
lai
Ngày 01 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông có mặt tại Quảng trường
Thiên An Môn đã long trọng tuyên bố với thế giới sự ra đời của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Cách mạng Trung Quốc, khuyến khích Hồ Chí Minh đấu tranh
liên tục chống Pháp. Ngày 05 tháng 12, đại diện của Chính phủ nước Cộng hòa Dân
chủ Việt Nam. Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao.
Pháp vẫn còn dưới sự cai trị những phần đất trọng yếu của Việt Nam, các thành
phố lớn và các con đường vẫn kiểm soát đều trong tay của Pháp.
Hồ Chí Minh bí mật rời khỏi Việt Nam, đi bộ 17 ngày, họ đi tới
biên giới Trung-Việt. Được Thư ký Ủy ban Trung ương CPC, Phó Chủ tịch Lưu Thiếu
Kỳ tiếp đón, sắp xếp các cơ quan Trung Quốc hộ tống đến Bắc Kinh vào cuối tháng
Giêng. Cuộc trò chuyện bít mật giữa Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, tìm hiểu tình
huống đấu tranh chống Pháp, Việt Minh yêu cầu Trung Quốc trợ giúp khẩn cấp quân
sự, kinh tế và tài chánh.
Nước Cộng hòa non trẻ Trung Quốc, hiện chiến tranh không hoàn toàn
kết thúc, vẫn chưa có thời gian để hàn gắn vết thương, nền kinh tế quốc gia đòi
hỏi nhu cầu cấp bách phục hồi, hoạt động nguồn máy cai trị chỉ mới bắt đầu,
toàn bộ núi sông xây dựng lại đầy đủ quy mô đang được tiến hành, những khó khăn
phải đối mặt từng người một, để giải quyết những khó khăn này sẽ mất thời gian,
nhân lực, vật lực và tài chính. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh chống Pháp đã bước
vào năm thứ tư. Đối với Pháp một quốc gia đã có nền công nghệ tiên tiến và
trang thiết bị tối tân. Hầu hết quân Pháp chiếm đóng các thành phố và đường
giao thông của Việt Nam, một nỗ lực bao vây biên giới Trung-Việt. Pháp áp dụng
chiến thuật phân tán, chặn đường, chia nhỏ hoặc thậm chí loại bỏ cơ sở đấu
tranh chống Pháp, tình hình Việt Minh của Hồ Chí Minh rất ảm đạm tại biên giới
Việt-Trung.
Mao Trạch Đông có nhận thức riêng cho rằng Trung Quốc và Việt Nam
là láng giềng gần gũi sâu sắc, phụ thuộc vào sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam chống lại và chiến thắng Pháp đó là nghĩa vụ của Trung Cộng,
không chỉ hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của các Đảng anh em và các nước nghĩa vụ Quốc
tế Cộng sản, nỗ lực giúp phá vỡ bao vây chủ nghĩa đế quốc, phong tỏa Trung Quốc
để duy trì sự độc lập, an ninh và kinh tế xây dựng tương lai của Trung Quốc và
châu Á, hòa bình thế giới có một ý nghĩa tích cực. Các bức tranh lớn của Mao Trạch
Đông, thảo luận, quyết định chấp nhận đáp ứng yêu cầu của Hồ Chí Minh, Trung Cộng
viện trợ quân sự không hoàn trả, một đầu tư lớn trong chiến tranh theo mật ước
1956, Hồ Chí Minh phải trả bằng biên cương lãnh thổ.
Theo quan điểm của Ủy ban Trung ương CPC Trung Cộng với đồng chí
La Quý Ba đại diện liên lạc với Việt Nam, Chủ tịch Mao và Ủy ban Trung ương Đảng
cũng quyết định bổ nhiệm người đứng đầu quân sự Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sanh làm
trợ lý cho Tập đoàn Cố vấn quân sự, Trần Canh cũng đã được gửi đến chiến trường
Việt Nam hỗ trợ các tổ chức phụ trách chiến dịch biên giới và công tác viện trợ
quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam.
Trung Cộng phái đại diện Tập đoàn Cố vấn đến Việt Nam, lần đầu
tiên trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đó là liên quan trực tiếp đến
cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Pháp, liên quan đến hai bên, sự phát
triển quan hệ song phương, Mao và Ủy ban Trung ương Đảng vô cùng chú ý, nghiên
cứu quy định từng nhiệm vụ cho Tập đoàn Cố vấn, hướng dẫn tư tưởng và phương
pháp hành động. Tập đoàn Cố vấn trước khi khởi hành, Mao Trạch Đông đích thân
thăm hỏi các thành viên của Tập đoàn Cố vấn Bắc Kinh, Tập đoàn Cố vấn cung cấp
hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất, giúp giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh ở
Việt Nam, việc trục xuất những kẻ xâm lược Pháp. Thứ hai, giúp Việt Nam xây dựng
quân đội chính quy. Mao nói rằng, "gửi chuyên gia Cố vấn sang Việt Nam bởi
sự yêu cầu của Hồ Chí Minh, một thực hiện chuyển tiếp tinh thần chủ nghĩa quốc
tế, sự nghiệp giải phóng nhân dân Việt Nam như sự nghiệp của Trung Cộng, nâng
cao tinh thần đoàn kết với các đồng chí Việt Nam, đặc biệt là nâng cao tình
đoàn kết với các nhà lãnh đạo Việt-Trung".
Ngày 02 tháng 10 năm 1960, Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh, Mao Trạch
Đông tổ chức chào đón Hồ Chí Minh.
Mao Trạch Đông cũng chỉ ra rằng, "giúp đỡ mọi người, không chỉ
bằng cách bắt đầu từ ý muốn chủ quan, nhưng cũng theo tình hình thực tế, giúp
phải được thích hợp. Tham khảo ý kiến đúng với những người khác, trung thực,
cẩn trọng. Trao cho họ kinh nghiệm nhiều bài học, và ít nói về "biển người",
thường xuyên xem xét hành vi của mình
Mao Trạch Đông cũng nhấn mạnh rằng, "các dân tộc Việt Nam dễ
sai khiến, nhờ vậy tình hình cách mạng phát triển nhanh chóng trong những năm
qua. Chúng tôi hỗ trợ phương tiện là cách duy nhất để Việt Nam tự lực".
Mao nói tiếp: "gửi Hồ Chí Minh đến một nơi rất khó khăn, phải đối mặt với
một nhiệm vụ nguy hiểm và hy sinh, để vượt qua khó khăn đó mới thể hiện được
thành công cho tương lai cách mạng Trung Quốc ".
La Quý Ba đến Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp đón nhiệt liệt. Họ cẩn
thận phân tích hai mặt của tình hình, cùng với các nhà lãnh đạo Việt Nam, khảo
sát nghiên cứu trong đó các tuyến đường chính hậu phương Trung Quốc, bị quân đội
Pháp đang phong tỏa, viện trợ không thể vào Việt Nam, trước hết Tập đoàn chuyên
gia Cố vấn và đồng chí Trần Canh hoạt động giải quyết vấn đề giao thông vận tải,
phát triển một kế hoạch cho chiến dịch hiệu ứng biên, đảo ngược tình hình. Dưới
sự nỗ lực chung của Trung Quốc và Việt Nam, cần nhất đầu tiên cuộc chiến biên
giới thắng trận, nâng lên chiều cao của chiến công.
Trong những cuộc chiến đánh dấu khởi đầu, quân đội Trung Cộng đã
thiệt mạng gần 10.000 binh sĩ, tù binh 541 binh sĩ, tuy nhiên Trung Cộng chiếm
được 5 thành phố, 13 thị xã biên giới Trung-Việt, giải phóng mở rộng miền Bắc
Việt Nam, củng cố các căn cứ vừa chiếm được, đường giao thông vận chuyển biên
giới Trung Quốc-Việt Nam được lưu thông, tiếp tục vận chuyển đến Việt Nam những
phương tiện chiến tranh. Hồ Chí Minh cho biết về chiến dịch: "Chúng ta đã
khởi sự chiến thắng vĩ đại, đầu tiên chúng ta loại bỏ những kẻ thù và giải
phóng Cao Bình (Kopin-高平), Đông Khê (Dongxi-东溪), Thất Khê (七溪), thứ hai là chúng ta thấy những
điểm yếu và điểm mạnh của riêng mình.
Trận chiến biên giới chiến thắng lớn, làm sâu sắc thêm tình hữu
nghị cách mạng Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Vào tháng 2 năm 1951, Hồ Chí Minh
báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc Đảng Nhân dân lần Thứ hai, ông cho biết:
"Bởi vì các mối quan hệ giữa vị trí địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa và
các khía cạnh khác của sự kiện, những cuộc cách mạng Trung Quốc có một tác động
rất lớn đối với cách mạng Việt Nam." "Dựa kinh nghiệm của cách mạng
Trung Quốc, dựa vào Chủ tịch Mao Trạch Đông, chúng tôi đã đạt được nhiều thắng
lợi". "Đây là những gì chúng ta nên giữ trong tâm trí của những người
cách mạng và lòng biết ơn của Việt Nam". Thực ra người Hán (Hồ) biết ơn
người Hán (Mao) là lẽ bình thường, còn đối với dân tộc Việt Nam đó chỉ là một
cuộc xăm lăng Trung Quốc.
Tình Mao-Hồ thân như thủ túc
Buổi sáng, ngày 23 tháng 6 năm 1955, Hồ Chí Minh mặc một chiếc
váy, đội mũ, tới đứng trước Ải Nam Quan (睦南关). Ông nhìn lên quan lâu
hùng vĩ. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cơ Bằng Phi (Ji Pengfei-姬鹏飞) và Đại sứ Việt Nam Hoàng Văn Hoan, ký mật ước đổi Ải Nam Quan
thành Mục Nam Quan. Hồ Chi Minh khánh thành chân bước vào cửa Mục Nam Quan đi
sang bên kia biên giới Trung Quốc. Lần này Hồ Chí Minh sang Trung Quốc, theo lời
mời của Chính phủ Trung Quốc và Chủ tịch Mao Trạch Đông, trên nguyên tắc đây là
chuyến thăm ngoại giao đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Hồ Chí Minh mỉm cười ngạo nghễ Ải Nam Quan từ nay mất tích, thái độ
đầy hứng thú và niềm vui. Bởi vì, trong mấy năm qua và sau này, nhân dân Việt
Nam không hề biết Hồ Chí Minh dâng Ải Nam Quan cho Trung Quốc ! Cứ tưởng rằng Hồ
anh hùng dân tộc hơn cả Đức Hùng Vương có thể mô tả như một kỳ tích.
Vào thời điểm đó có một "Nam Quan Hận Khúc"
:
Rừng cô tịch suối trầm nao tiếng thở,
Lá hoa sầu nức nở hận ly tan,
Kéo về đâu mây tần chênh sóng vỗ,
Đây Nam Quan chia biệt máu sôi tràn.
(Văn Giảng)
oOo
Ôi Nam Quan ! Ôi Nam Quan !
Nơi gió gào sông núi rền vang niềm hờn oán !
Đâu anh linh ? Dâu anh linh ? Đâu bao đời cường
?
Đây Nam Quan, người đày cùm Phi Khanh anh
hùng !
Máu dân tràn tuôn, muôn lầm than,
Nghìn xót thương, nhìn đớn đau,
Tấm thân già đây ước mưu thù chung :
Ngờ đâu quân Minh lộng cường quyền đày đi xa
vời quê hương,
Thôi hết mơ đi ca hát nhịp nhàng
Ta tiến, ta tiến, ta tiến theo người.
Đem tấm gương sáng băng ánh soi đời.
Trông đường xa, trông đèo cao
Trông rừng húy, theo cờ bay,
Chân dần bước, bền tâm chí.
Sông núi Nam, Minh còn gieo hận, quyết chiến thắng !
Ta tuốt gươm vang lừng reo cùng :
Ai thi gan ?
Nơi sa trường, say sưa ước cái chết vinh quang.
Xua quân thù, đem xương máu xây đắp nhà Nam.
Ôi ly tan ! Ôi ly tan !
Con quyết nguyền không bước đời cha già hờn
oán !
Con ơi con! Đây Nam Quan con nghe lời truyền
:
Cha đi thôi, tìm đường về con tung gươm
vàng.
Nước non tàn nguy khóc lầm than rền xót
thương.
Chờ đón cơ đứng lên với binh quyết mưu thù
chung !
Lạy cha con xin nguyền đời đời làm theo
bao
lời thiết tha
Khi bóng cha lan theo bóng chiều tà
Ta tiến, ta tiến, ta tiến theo người.
Đem tấm gương sáng băng ánh soi đời.
Trông đường xa, trông đèo cao
Trông rừng húy, theo cờ bay,
Chân dần bước, bền tâm chí.
Sông núi Nam, Minh còn gieo hận, quyết chiến thắng !
Ta tuốt gươm vang lừng reo cùng :
Ai thi gan ?
Nơi sa trường, say sưa ước cái chết vinh quang.
Xua quân thù, đem xương máu xây đắp nhà Nam [2]
(Hồ Đình Phương)
Phía sau chiến tranh hai miền Nam Bắc Việt Nam
Tháng 7 năm 1954, ký kết Hiệp định Genève giữa Pháp và Việt Nam về
việc khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương. Việt Minh thay thế người Pháp cai trị
miền Bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện cuộc đấu tranh mới với sự viện
trợ của Trung Cộng.
Ngày 03 tháng 8 năm 1964, Trung Cộng đưa quân đội vào Vịnh Bắc Bộ,
chính phủ Mỹ gọi là "sự kiện vịnh bắc bộ" tàu Mỹ ở tiếp tục "tuần
tra" trong vùng, Trung Quốc huy động một số lực lượng chiến thuyền tại
vùng biển của Việt Nam, máy bay Mỹ tấn công cơ sở vật chất Trung Cộng.
Ngày 05 tháng 8, Trung Cộng gửi một số lượng lớn máy bay trên vùng
trời Nghệ An, Thanh Hóa, Sông Hồng và ven cảng biển khác của miền Bắc Việt Nam,
đe dọa uy lực Hoa Kỳ và huy vọng vùng biển Việt Nam thuộc Trung Cộng. Hoa Kỳ chỉ
sợ quân Bắc Việt xua quân xuống miền Nam Việt Nam mới có sự án ngữ trên.
Ngày 10 tháng 8, Quốc hội Mỹ đã thông qua "North Bay" độ
phân giải cho phép Tổng thống Johnson tuyên bố, "để thực hiện tất cả các
biện pháp cần thiết đẩy lùi lực lượng vũ trang tấn công Hoa Kỳ". Điều này
chủ yếu là các tuyên bố công khai của Mỹ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Hồ
Chí Minh gửi một đề nghị Mao Trạch Đông hỗ trợ khẩn cấp, và Lê Duẩn gửi đến
Trung Quốc một dự thảo luận chiến tranh. Mao phân tích thận trọng về tình hình
Việt Nam và tình hình quốc tế, sau khi xem xét cẩn thận, quyết định "đáp ứng
yêu cầu của Đảng Lao động Việt Nam vô điều kiện." Lưu Thiếu Kỳ và Lê Duẩn
có cuộc đàm phán bí mật về các vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam đạt đồng
thuận.
Tháng 5 năm 1965, Hồ Chí Minh đến Trường Sa thăm Mao Trạch Đông. Hồ
Chí Minh thưa với Mao Trạch Đông rằng: "Tôi đến Trung Quốc, có ba mục
tiêu: đầu tiên là chúc mừng Chủ tịch và các đồng chí khác của Trung ương (CPC)
nhiều sức khỏe, thứ hai là đại diện Đảng Lao động Việt Nam, lòng biết ơn Đảng Cộng
sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc, Cảm ơn quý đồng đã cho chúng tôi sự trợ
giúp đấu tranh chống Mỹ; thứ ba là để chúc mừng sự thành công của vụ nổ bom
nguyên tử thứ hai của Trung Quốc".
Tình hữu nghị gian dối, tình anh em cướp nước
Mao Trạch Đông cho rằng "đất nước Việt Nam và Trung Quốc nối
kết núi liền núi sông liền sông", đây chỉ là ngẫu nhiên không phải tự nó hữu
nghị, trái lại tính chất con người do phong thổ tạo thành, ở bên này núi hay
sông cũng khác nhau rất nhiều, thế nhưng Trung Cộng định nghĩa theo kiểu xăm
lăng "núi liền núi sông liền sông" ngộ nhận, vô hình chung Việt
Nam-Trung Quốc là một quốc gia.
Trung Cộng cho rằng, sông Hồng Hà phát nguồn từ Vân Nam (Đại Lý) đến
Việt Nam dài hơn 500 km, nó giống như một trái phiếu của tình hữu nghị. Thế
nhưng ở mặt thật Trung Quốc đã giết chết tình hữu nghị ấy, để lại cuối nguồn cạn
khô dòng nước mắt.
Việt Cộng chống Pháp, chống Nhật, đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào, giúp
cho xâm lược Trung Cộng bảo vệ đất Hán ở yên bờ cõi. Tình hữu nghị giữa hai đảng
củng cố và phát triển Quốc tế Cộng sản ; mối quan hệ song phương chặt chẽ giữa Mao-Hồ
hơn bao giờ hết, giao lưu ngày càng thường xuyên trên mặt chư hầu ; Mao Trạch
Đông và Hồ Chí Minh gần như là anh em, hỗ trợ lẫn nhau chính sách xăm lăng.
Hồ Chí Minh thường về thăm đất tổ Trung Hoa và tổ chức sinh nhật
trên quê hương của mình. Mỗi ngày Hồ đều tiếp xúc gần gũi với các nhà lãnh đạo
Trung Quốc, cho rằng tình bạn sâu sắc, nhưng không khí với nước trong nhà máy
Trung Quốc, và tất cả cảm thấy ấm áp vì họ cùng đồng tính luyến ái.
Đầu tháng 1 năm 1959, Hồ Chí Minh đi Tân Cương (新疆) hưởng thụ tại Tửu Tuyền (酒泉), Lan Châu (兰州), Tây An (西安), Bắc Kinh và chuyển hướng đến
Lư Sơn (庐山) Trung Quốc. (Những nơi này nhất dạ đế vương), Hồ Chí Minh sức
khoẻ có hạng bị đột quỵ sau đêm "nhất dạ đế vương" tại Tửu Tuyền, nhờ
kịp thời tiến hành cấp cứu, một thời gian mới được bình phục.
Ngày 06 tháng 7 năm 1959,Hồ Chí Minh bí mật đi Lư Sơn.
Hồ Chí Minh tạm trú trong khu vực Cổ Lĩnh Đông Cốc
biệt thự Đông số 346, ông đi thăm một số sưu tập bảo tàng Lư Sơn, phong
phú và có giá trị. Trong kho tàng nhiều bộ thư pháp và sưu tập hội họa quốc gia
xinh đẹp, có một bộ sưu tập thư pháp Hồ Chí Minh và cảm tưởng "Lư Sơn hảo"
của người sáng lập Đảng Lao động Việt Nam.
Hồ Chí Minh đến Lư Sơn được gặp gỡ các nhà lãnh đạo Quân ủy Trung
ương Trung Quốc (CPC) đang tổ chức cuộc họp bất thường. Sáng ngày 07, Mao
Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai và lãnh đạo trung ương khác tích
cực, lắng nghe quan điểm của Hồ Chí Minh, báo cáo về chiến tranh Việt Nam, chủ
yếu cần viện trợ, vũ khí và quân lương.
Ngày 12 tháng 8, Hồ Chí Minh lấy lại sức khoẻ, cảm xúc nhìn thấy bầu
trời mặt phẳng, những ngọn đồi tuyết, ánh sáng lung linh qua hàng thông xanh,
phong cảnh ngoạn mục. Hồ ngẫu hứng sổ ra bốn câu thơ ngôn ngữ mẹ đẻ Trung Quốc
:
"遥望天山风景好,
紫霞白雪抱青山.
朝阳初出赤如火,
万道红光照世间".
"Diêu vọng Thiên Sơn phong cảnh hảo,
Tử hà bạch tuyết bão Thanh Sơn.
Triêu dương sơ xuất xích như hỏa,
Vạn đạo hồng quang chiếu thế gian".
Tử hà bạch tuyết bão Thanh Sơn.
Triêu dương sơ xuất xích như hỏa,
Vạn đạo hồng quang chiếu thế gian".
Chuyến đi Lư Sơn của Hồ Chí Minh từ lâu đã là một bí mật, ông ghi
vào bộ sưu tập cảm tưởng "Lư Sơn hảo", ngày nay vẫn còn lưu trữ. Hồ
Chí Minh tự viết cảm tưởng tiết lộ sự thật về mình là người Hán ví như "một
con sông lớn và núi cao Trung Quốc" (是胡志明对中国大好河山) [2]. Đến đây cả dân tộc Việt
Nam vẫn còn ngộ nhận, mắc mưu Hồ Chí Minh "cha già dân tộc".
Ngày 01 tháng 7 năm 1961, Hồ Chí Minh tổ chức kỷ niệm lần thứ bốn
mươi, ngày sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Chí Minh viết một bài báo có tựa
đề "Cách mạng Trung Quốc và cách mạng Việt Nam" (中国革命与越南革命), đánh giá cao quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam, ca
ngợi nó như sau:
"Ân thâm, nghĩa trọng, tình trường.
Hữu hảo tinh thần vạn thế lưuphương".
(恩深, 义重, 情长.
友好精神万世流芳).
Cho thấy Hồ Chí Minh xem trọng Trung Quốc đến chừng nào ! Tại sao
ông không ca tụng Việt Nam cho hết lời, bởi vì sinh ra ở đâu về tuổi già thì
đáo đầu về cố quốc, đó là sự tự nhiên của con người. Ông còn nhấn mạnh Việt Nam
phải cúi đầu trung thành với Trung Quốc đúng nghĩa một chư hầu vạn thế lưu
phương, đến giờ chết Hồ Chí Minh mới nói sự thật gốc gác của mình con dân nhà
Hán.
Huỳnh Tâm
Tham khảo :