Biên Giới Việt Nam-Trung Quốc.1979-2010 - Kỳ 02 (Huỳnh Tâm)

Chiến lũy Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam
Chiến lũy vòng 1 xuyên qua Làng Suối Nam
“...Vài nén hương lòng nghiêng mình tưởng nhớ lãnh thổ quê hương Việt Nam bị mất, người vô danh khuất mặt trong trận chiến Đông Dương lần thứ 3 vào ngày 17/2/1979. Tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc, cách đây 33 năm về trước (17/02/1979 ─ 17/02/2012) ..."
Hành lang chiến lũy số 1, chia ra thành hai phần, phần giao thông hào chiều ngan 0,8m đôi khi từ 2m đến 4m và sâu từ 2m đến 1m, nơi nào rộng rãi thường là ban chỉ huy cấp Lữ đoàn hay Đại đội và nơi đặt pháo đội. Phần mặt lối đi hai chiều có nơi rộng 1,5m hay 1m, nếu đi xe đạp trên con đường gồ ghề này, tất nhiên rất khó đi. Chúng tôi gặp một con suối cũng là nơi tiếp nối vào chiến luỹ, muốn đi qua suối phải vác xe đạp lên vai. Lãnh thổ Việt Nam được biết gần đây có một ngôi làng người Việt tị nạn tên gọi Làng Suối Nam thuộc huyện biên giới Nam Khoa Vân Nam. Tôi vui mừng, hy vọng vào làng thăm bạn Đào xích lô đang cư ngụ nơi rừng sâu heo hút. Chúng tôi vừa qua khoải Suối Nam, chạm mặt một tiểu đoàn tuần tiễu biên phòng cưỡi ngựa từ xa đi đến, thế là chuẩn bị đối phó với địch, có thể việc bất trắc đến với tôi nhiều hơn là hai anh Linh và Bá, tôi đang ngồi sau lưng xe đạp của anh Linh nói:
─ Thưa hai anh nhất trí một ý, để Tâm trình thẻ nhận diện ID, và thuê hai anh hướng dẫn đường gần nhất đến làng Suối Nam thăm người nhà, hiện giờ không nên sử dụng được giấy tị nạn của anh Minh, vì chúng ta vô tình lọt vào đoạn chiến lũy cấm dân sự vào.... nói chưa hết lời.

Đội kỵ binh Trung Quốc, phi đến quá nhanh, đội hình trước mặt chào chúng tôi bằng quân lệnh tiếng súng lên nòng đạn, bao vây một vòng rào rộng. Chúng tôi tư thế tự nhiên không hề sợ hải, viên chỉ hy kỵ binh Trung Quốc nói tiếng quan thoại:
─ Tụi mày, bỏ balô xuống đất, và nằm úp mặt xuống đất để khám xét.

Chúng tôi đồng làm theo lời của viên chỉ huy kỵ binh, không phản ứng cũng không một lời đáp. Trước tiên đội kỵ binh chia ra hai nhóm, nhóm đầu lấy một chân đạp vào lưng và kê súng liên thanh vào đầu chúng tôi, nhóm hai dùng tay rà tìm vật khả nghi từ sau lưng đến trước ngực, đặc biệt họ đụng vào bao than hoá học Nhật-bản ngan hông của tôi, tức thì họ rút tay lại lập tức, họ chưa kiệp phản ứng, anh Linh liền nói:
─ Thưa quý anh, vật trong người của bạn trẻ đang dùng là để chống rét rừng, nó có khả năng sưởi ấm toàn thân cho cả ngày, chứ không phải chất nổ v.v... hiện trong balô của bạn trẻ còn 9 bao than như vậy.

Viên chỉ huy bảo anh Linh:
─ Đứng lên đổ hết đồ vật trong balô ra.
─ Vâng.

Anh Linh lấy balô của tôi chúi đầu miệng xuống, tất cả đồ vật đều rơi xuống đất có cả 9 bao than Nhật-bản, anh liền xé ra rồi vò ba-bốn lần, nhét vào hông. Trước khi đi tôi có hướng dẫn và giải thích cách dùng cho nên anh Linh và Bá biết cách dùng, tuy nhiên hai anh chưa đến lúc phải dùng đến nó vì hai anh đã quen khí hậu sống trong rừng. Tiếp theo anh Linh cũng mở miệng hai balô còn lại, đổ tốc xuống để kiểm tra, không thấy gì khả nghi. Viên chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi đứng lên:
─ Tụi mày cho xem thẻ tùy thân.

Tôi trình trước thẻ nhận diện ID cho viên kỵ binh, tiếp theo anh Linh và anh Bá trình giấy tị nạn, viên chủ huy nói tiếp:
─ Thế thì chúng mày đã quen biết trước à?

Anh Bá đáp:
─ Hai anh em chúng tội được người bạn trẻ này thuê chở đến làng Suối Nam tìm người nhà, điều kiện thời gian đi và về hai ngày đường, thay vì đi đường thị trấn phải mất bốn ngày, chúng tôi vừa đi vừa hỏi đường nào ngắn nhất, thế là chọn con đường này mà đi.

Viên chỉ huy hỏi tiếp:
─ Nếu không quyen biết trước thì làm cách nào biết sử dụng bao sưởi ấm này?
─ Chúng tôi cũng mới biết đây thôi, thấy người bạn trẻ dùng và làm như thế nào thì tôi bắt chước, nhái lại y như vậy, còn được người bạn trẻ cho biết tác dụng của bao than này.

Viên chỉ huy ngó tôi một hồi lâu rồi hỏi:

─ Những bao than này có độc không và mua ở đâu?

─ Thưa, tôi mua ở Côn Minh, tạp hóa nào cũng có bán, bao than này đương nhiên là không độc, trái lại nó còn làm cho mình không mất hơi nóng, dù ngoài trời rất rét, nhất là tiện lợi khi đi rừng gặp khí hậu như hôm nay.

Cuối cùng viên chỉ huy trả lại giấy tờ và thẻ nhận diện cho chúng tôi nói tiếp:
─ Chúng mày đi đường khác, không thể đi xuyên qua làng Suối Nam bằng lối này, đã cấm hơn năm ngày trước.

Anh Linh thở dài, xem như đã bí lối đi nói:
─ Thế là chúng tôi chả làm ăn được gì cả, trong chuyến chuyển hàng này, nếu quay đầu trở lại đi đường thị trấn thì thà về nhà sướng hơn!

Viên chỉ huy hỏi đồng đội:
─ Quý đồng chí có biết con đường nào khác để vào làng Suối Nam không ?

Một đồng đội đáp:
─ Con đường làng Cũ đi được nhưng rất nguy hiểm, khi qua khỏi làng Cũ có bảng chỉ dẫn lối đi Suối Nam, và lên hướng Tây chiến lũy.

Chúng tôi mừng thầm, tuy không thăm được Đào xích lô, cũng ít nhất có lối đi đến mục đích hướng Tây.

Chúng tôi và bọn Trung Quốc mã tà biên phòng chia tay, trong tôi phát hiện nửa buồn nửa vui, buồn không gặp được Đào xích lô, người bạn mà cả đời sống cho bạn, và trong sự buồn có cái vui khám phá giá trị của thẻ nhân diện ID. Từ đây không run sợ mỗi khi gặp an ninh Trung Quốc kiểm tra giấy tờ, nhất là tự do đi vào biên giới. Tôi càng tin tưởng hơn sẽ làm được thẻ nhận diện ID cho tất cả bạn bè đang trong những lao tù "lồng chim" biên giới, vui chưa hết thì phiền muộn khác nổi lên trong lòng, bởi biên giới nơi này là niềm kiêu dũng của tổ tiên Bách Việt tạo thành, nay trở thành miền đất của kẻ lạ Bắc Kinh. Mãnh đất của Tổ quốc do đảng CSVN quyết định phụ bạc từ ngày 17/02/1979. Kẻ đương quyền bóp miền đất yết hầu ngạt thở, chết một cách tức tưởi, cách đây 8 năm trước (1979-1987).

Nghĩ rằng Việt Nam còn chế độ CS không khác nào một con bệnh khổng lồ, đất nước luôn đau ốm, dần dà mai sau cả dân tộc Việt Nam đi về cõi chết vì không ai tìm ra phương thuốc tự do dân chủ đa nguyên để trị liệu.

Trong tâm trí của tôi vừa đi qua động tình xót xa quê hương, cũng như trước mặt tôi muôn ngàn thực tại, nào là chạm trán cản trở, như kỵ binh biên phòng Trung Quốc, xác đạn súng liên thanh made in China đếm không thể nào hết trên lộ trình đã đi qua, hằng vạn ống đồng đạn đại pháo tiêu hủy làng mạc của đồng bào cao nguyên Bắc phần Việt Nam, có ngôi làng xưa trên 1.000 năm bỗng chốc biến mất trong khói lửa, hằng vạn người thân thể biến dạng trần trụi, trên những khuôn mặt chỉ còn xương và gân hình thù quái dị, nhẹ nhất tàn tật không tay và không chân, đôi mắt mù, người đồng sinh với tôi lặng lẽ sống như thế đã trôi qua 8 năm (1979-1987).

Ngôi làng Thập Lý của người thiểu số Dao với tuổi thọ trên 1.000 năm, tại ải địa đầu Tổ quốc, bỗng chốc biến mất trong khói lửa, chỉ còn lại một đồi núi trọc nghi ngút khói, đã 8 năm trôi qua, ngày nào cũng có người đến đây để tìm một thứ tinh thần đã mất.

Chúng tôi ra khỏi khu rừng ảm đạm, xe đạp tiếp tục đổ xuống đèo, hai chân kềm hảm phanh thắng, liên tục vượt qua hai đồi núi, đến gốc bẹt gặp một phong cảnh đẹp như họa phẩm tranh lụa của họa sĩ La Minh, càng đến gần thung lủng nhìn xuống thấy một cảnh hoang tàn của chiến tranh để lại, làng mạc tiêu điều, cỏ mọc phủ lên sự sống của con người.

Ở đây chỉ còn lại những dấu người xưa đã chết, cảnh chiến tranh đem đến cho người dân miền núi cao nguyên Bắc phần những thảm khốc vô lường. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu nhân mạng hiền hòa bỏ xác ở gốc rừng này và hôm nay dân làng mộc mạc sống ở đâu? Suy nghĩ nhiều cảm thấy lành lạnh vì trước mặt toàn là đổ nát. Bỗng anh Bá la lớn tiếng:
─ Tâm đứng lại không được bước vì chân đã đạp lên bẫy mìn.

Tôi suy nghĩ, bỏ mạng nơi đây rồi! Tôi hỏi:
─ Nhờ đâu anh biết lựu đạn dưới chân tôi?

─ Cái chốt lựu đạn phát ra một tiếng cắt, ở dưới chân trước của Tâm, bây giờ cứ đứng yên một chỗ để tôi và Linh sử lý nó.

Từ lúc này, toàn thân nóng bừng lên, như lửa đang cháy từ trong ra ngoài, mồ hôi liên tục túa ra như đi dưới mưa, cảm giác hai chân mỏi vì đứng thế tấn trụ hơn 15 phút, tôi trở thành một người nộm giữa rừng, chung quang chỉ một màu ảm đạm, còn anh Linh anh Bá biến mất, thấy hai chiếc xe đạp nằm dưới đất, giờ phút lâm nguy tôi tự trách mình, khi cây gãy cành chim bay hết.

Chân tôi đạp phải lựu đạn mà không biết cũng vì bẩm sinh lãng tai. Thực ra tôi có thể tự mình cứu mình, nhưng chung quanh không có một thứ gì đối xứng với nửa trọng lượng thân thể trên lựu đạn.

Một chặp, tôi mới thấy bóng hai anh Linh và Bá từ xa đi về hướng tôi, anh Linh trên vai một tảng đá xanh và anh Bá hai cây tầm vông dài chừng 4m và buộc một dây rừng dài, tôi tự thầm sám hối, xin lỗi đã hiểu nhằm người tốt. Lúc này mới quyết chắc tôi được tiếp tục sống trên cõi đời này, anh Bá nói:
  
─ Tâm, chịu khó chỉ dỡ 5 ngón chân lên, còn góc chân vẫn giữ như cũ.

Tôi thấy anh Bá đút một cây tầm vông vào phần dưới 5 ngón chân và nói:
─ Tâm hạ 5 ngón chân xuống đạp trên cây tầm vông theo thế như cũ, rồi nhón gót chân lên.
Anh Bá tiếp tục đút cây tầm vông thứ hai qua gót chân, tiếp theo hai tay anh Linh bưng tảng đá xanh án chừng 45kg để lên hai cây tầm vông, xát chân của tôi, anh Linh thở mạnh, trên trán lấm tấm mồ hôi, miệng cười tỏ vẻ thành công nói:
─ Bây giờ Tâm nhắc chân lên từ từ, và rời khỏi nơi đứng, ra xa tìm một gốc cây cổ thụ để tránh đạn.

Tôi vâng lời làm theo hướng dẫn, đứng nép mình sau cây cổ thụ lớn, anh Linh nép mình vào cây cổ thụ trước tôi, còn anh Bá đến cây cổ thụ bên trái, trên tay cầm theo sợi dây đã buộc vào hai cây tầm vông làm đoàn bẫy mìn, anh vừa giật mạnh sợi dây tức thì tảng đá lăng xuống, một tiếng nổ vang ầm khủng khiếp, đất đá bay tứ phía khua động rào rào, cả một vùng mịt mù, trái phá làm chúng tôi kinh ngạc, trước mặt một hố sâu 2m bề rộng 5,5m, đủ chôn vùi 10 thi thể.

Anh Linh thúc dục:
─ Chúng ta đi gấp, ở đây sẽ mang họa vào thân.

Chúng tôi hối hả thi nhau đạp xe lên dốc cao, bằng máu nóng không hề biết mệt nhọc, và cho xe đẹp vô tư xổ xuống dốc, tôi nói:
─ Tâm xin đa tạ hai anh, nhờ hai anh lượm lại mạng sống cho em.

Anh Bá cười hỏi:
─ Tại sao Tâm đạp lên mìn mà không biết?

─ Thưa quý anh, em bị bẩm sinh lãng tai, dù đạn pháo có nỏ gần đây, vẫn tưởng nổ đằng xa, cho nên bạn thân thường gọi tên, Tâm điếc đặc hay "điếc thi đạn súng".

Tất cả cùng nhau cười, anh Bá nói tiếp:
─ Thảo nào Tâm nói chuyện lớn tiếng, nhất là khi vui có ra vào "lai rai ba ly" càng lớn tiếng hơn.
─ Anh Bá hiểu như vậy là cảm thông được cái yếu điểm của Tâm.

Chúng tôi qua khỏi chiến lũy đèo Nam Khoa đến biên giới huyện Giả Mễ, mới cảm nhận được mọi sự trở về trong bình an, tinh thần hơi phơi phới. Đúng lúc gặp người đi cấu siêu vong linh cho thân nhân ở nghĩa trang Cô hồn, họ cho biết cuộc chiến tranh diễn ra tại nơi này:

─ Ngày 24/02/1979 tại đầu đồi núi huyện Giả Mễ, có một trận chiến biển người liên tục 5 ngày. Quân đội nhân dân Trung Quốc rất can trường tiến lên lớp nào tử trận banh thây lớp đó, đến nỗi không còn nhận diện được số quân tử vong, thịt xương văng tứ phương mười hướng không biết tìm đâu là thân xác của mỗi người, họ sinh ra trót lỡ lầm thân hình người nộm cho tướng quân Trương Vạn Niên (Zhang Wannian) làm trò chơi chiến tranh, vốn đệ tử pháp thuật của Khổng Minh thời Tam Quốc. Cuối cùng Trung Quốc cũng giành giật được những ngọn đồi núi cao, một chiến thắng trả giá quá đắt đỏ. Quân y Trung Quốc "hốt cái" tử thi hơn hai tháng chưa rửa sạch chiến trường. Thịt, xương, máu còn đậu trên cành cây, mỏm đá. Đã 8 năm trôi qua nơi này biến thành nghĩa trang lính cô hồn Trung Quốc, mỗi ngày thân nhân cô hồn thường đến đây cúng vong, cầu siêu.

Dù sao chúng tôi cũng đi qua đây, xin cúi đầu kỉnh lễ, cầu nguyện người sinh ra làm lính Trung Quốc bỏ xác trên chiến trường lãnh thổ Việt Nam. Tôi đưa tay lên làm phép Thánh, niệm chú giải oan cho họ và cầu nguyện linh hồn họ về cõi hồng ân.

Chúng tôi tiếp tục xuống khỏi đồi, gặp một vọng canh tiền đồn Bình Hà, bao quanh bởi núi cao, tạo thành một chiến lũy thứ hai, hướng triền núi trước mặt, đối diện tỉnh Lai Châu Việt Nam, quân đội Trung Quốc chiếm được điểm núi cao làm lợi thế chiến lược, kiểm soát các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nơi đây là trọng điểm phòng ngự giá trị nhất tại hành lang biên giới, trước đây quân đội Trung Quốc mở cuộc xâm nhập tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam do tiền đồn Bình Hà hướng dẫn, chính điểm này làm mồi thuốc súng cho chiến trường bùng nổ dữ dội vào ngày 23/02/1979. Đến nay (1987) đảng CSVN vẫn chưa nói một lời nào về địa danh núi Cũ đã bị mất vào tay Trung Quốc.

Nhân tiện tôi hỏi hai anh Linh và Bá về khu núi Cũ:
─ Thưa quý anh, có biết chiến trận khu núi Cũ không?

─ Trận chiến này Trung Quốc tuy chiến thắng nhưng tổn thất rất nặng, họ đã chuẩn bị cho cuộc chiến này trước hai năm, nhất là địa hình, địa thế, chiến lược trên một bản đồ tiến công chi tiết, gọi là bản đồ khu núi Cũ.

Ngày 23/02/1979 quân Trung Quốc ước hẹn điểm tập kết sẽ tung hết hỏa lực để thăm dò đảng CS Việt Nam.

Bản đồ lưu: Quân khu Côn Minh

Trong trận chiến núi cũ Quân đoàn 14 Trung Quốc đưa Sư đoàn Lục quân 163 Trinh thám và Sư đoàn bộ binh 488 Thám sát, bao vây quần thể núi Cũ trên 21 đồi núi chiến lược, quân đội của đảng CSVN chỉ còn kiểm soát 3 núi nhỏ (3/21) trong tư thế mong manh, chờ tiêu diệt. Quân đoàn 14 Trung Quốc tăng cường Sư đoàn 152 pháo binh mở đường tiến quân mới, pháo đội 105 ly, 155 ly, 175 ly, súng cối loại 4.2 inch, liên tục rót đạn pháo phủ xuống đầu của quân CSVN, mỗi trái pháo chụp xuống làm hao mòn sức chiến đấu và ý chí. Tại mặt trận này từ ngày thất thủ cho đến nay chưa có một hồi ký nào của người bộ đội (cờ đỏ sao vàng), không chừng trong trận chiến này đã chết hết!

Cùng thời điểm ấy, Quân đoàn 14 đã hoàn toàn kiềm soát núi Cũ và tăng cường chiếm lĩnh những trọng yếu tiến về phía trước chạm đầu tỉnh Hà Giang, tiếp theo Quân đoàn 11, 13, ồ ạt tiến vào Lai Châu, Lào Cai, họ tung hoành thổi đạn pháo vào những cơ sở sản xuất, nhà máy mà trước đây trên danh nghĩa đảng CS Trung Quốc anh em viện trợ cho CSVN, nay người anh em CS Trung Quốc tự do hủy hoại toàn diện những thứ viện trợ trước đây, nhất là những thứ họ không đem đi được, đồng loạt cho biến thành những núi tro tàn, như cơ sở hành chính, cơ sở quân đội, trường học, bệnh viện, cầu kiều v.v... Ba (3) tỉnh thành phố phía Tây Bắc Việt Nam trở thành bình địa trong 10 ngày.

Tuy nhiên cũng có một số dân quân địa phương vì tự ái dân tộc không vì đảng CSVN, bởi thế không đứng bó tay, tự biến thành hành động, tổ chức thành những chốt phản công, đối địch mãnh liệt, quyết tử với cây súng để tìm sự sống cho Tổ quốc, lấy tinh thần dân tộc đổi chiến thắng.

Quân đoàn 11, 13, 14 của Trung Quốc có nhiều chốt phòng ngự bị thất thủ, bộ binh tử thương rất nhiều, pháo đội 175 ly của Sư đoàn 152 của Trung Quốc biết thành đống sắt. Quân đoàn 11, 13, 14 trao quân lệnh cho Sư đoàn 448 quốc phòng điều tra, trinh thám, thăm dò các cuộc tấn công do tướng nào trong quân đội của CSVN chỉ huy. Cuối cùng quân đội Trung Quốc điểm danh quân số tổn thất nặng trên 7.525 tử thương và 3.543 bị thương.

Anh Linh, thở dài nói tiếp:
─ Chiến tranh này chưa biết bao gời kết thúc, chúng ta không biết nhiều vì chiến trường trong chiến lũy thứ ba (3). Chúng ta chỉ nghe Radio và luận tình hình, nghe Tâm nói cũng phấn khởi ít nhất dân quân địa phương cũng là nòng cốt của quốc gia.

Tôi quan tâm về chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, luôn luôn muốn biết một số điều. Tôi nói:
─ Thưa hai anh, em có nghe một người quen luận về quân đội VN như thế này: "Bộ quốc phòng Việt Nam ra lệnh mở cuộc tấn công vào quân Trung Quốc bằng "hòa nhiệt độ", triển khai các căn cứ không quân tên lửa phòng thủ, tương tự như trong SA-3 Hongji Goa, còn gọi là "không khí vị trí phòng thủ tên lửa", hiện có bảy địa điểm mật tại miền Bắc Việt Nam, nhưng bị điệp báo Trung Quốc phát hiện. Sau đó T-34 Trung Quốc phá hủy một phần cơ sở tên lửa của quân đội Việt Nam.

Trước khi lên kế hoạch chiến tranh, Bộ chính trị đảng CS Việt Nam đã chỉ định đơn vị tham chiến, những quyết lệnh trong tay Bộ Quốc phòng với bí số 0,346 sau đó chia thành 4 bí số thi nhau hành động, như bí số 0,316, bí số 0,338, bí số 0,337, bí số 0,345 và 16 Sư đoàn thuộc 5 Quân đoàn phụ trách tham chiến, đồng lúc tăng cường 4 trung đoàn pháo binh. Nhưng một nghi vấn lớn có kẻ phản Quốc dâng kế sách chiến lược Quốc phòng Việt Nam cho Trung Quốc, bởi thế Trung Quốc đi trước một bước, sớm hơn dự định ngày 17/02/1979. Thay vì đến tháng 04/1979 Trung Quốc mới khởi động chiến tranh, cụm từ "phản công tự vệ" có từ đó và Đặng Tiểu Bình đích thân lãnh đạo chiến tranh đối đầu với Việt Nam.

Anh Linh và anh Bá ngó tôi một cách ngạc nhiên hỏi:
─ Chuyện bí mật như thế này mà Tâm còn biết được, đương nhiên đảng CSVN đã biết kẻ phản Quốc là ai rồi. Chúng ta nên nhớ kẻ phản Quốc đảng CSVN tha thứ, còn phản đảng thì họ không thể chấp nhận, liền khai trừ lập tức.

Anh Linh cười, nói tiếp:
─ Hì...hì... tin này Tâm lấy từ đâu và có xác thực không?
─ Thưa hai anh, tin này biết được từ quân khu Thành đô Côn Minh, Tâm còn biết vài tên tướng lãnh Trung Quốc tham chiến và tướng lãnh nào tử trận, tuy nhiên Tâm không biết hết địa danh từng cuộc chiến tranh, hy vọng sau này ánh sáng sẽ soi rọi và tự nó bày ra mọi sự kiện chiến tranh ngày 17/02/1979 tại biên giới Việt Nam –Trung Quốc.

─ Thì ra thời điểm này mới biết đảng CSVN chia thành hai phe, A bảo vệ đảng, B bán Tổ quốc, xem ra hai phe cùng là sâu bọ, đục khoét, hại dân, bán nước Việt Nam cho Trung Quốc! Tâm cho biết những sự kiện này rất lý thú, đáng quan tâm có dịp chúng ta sẽ tìm hiểu nhiều hơn.

Lại một lần nữa xe đạp đổ xuống đèo, dọc theo chiến lũy, quanh queo 7 vòng mới đến chân đèo Lục Xuân, có độ cao 970m. Không ngờ nơi đồi núi cao điểm B, hiu quanh lại có những tiếng khóc thảm thiết. Thì ra họ đến đây mỗi năm một lần vào ngày 17 tháng 02. Đúng ngày chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc (17/02/1979).


Họ đã lên hương, đèn, lễ vật tha thiết cầu khẩn cho vong nhân sớm được bình an nơi chín suối. Chúng tôi dừng xe lại, đứng nghiêm trang cúi đầu chào vong linh. Năm người Hoa thấy chúng tôi có cử chỉ chia sẻ tâm tang gia cảnh, họ theo phong tục tang chủ cúi đầu trả lễ. Một người phụ nữ hỏi:
─ Quý anh cũng đi hành lễ cho thân nhân phải không?

Anh Linh đáp:
─ Chúng tôi đi qua đây, gặp cảnh ngộ của quý vị đứng lại chia sẻ và nghiêng mình kính cẩn vong linh.

Tôi thấy họ rất thành khẩn cầu đảo cho vong nhân, nhưng trên khuôn mặt có nét âu lo, và hỏi:
─ Qúy vị cầu nguyện cho vong linh đã bao lâu rồi?

─ Thưa, chúng tôi hành lễ từ sáng đến giờ này, mà vẫn không an tâm, năm nào cũng vậy!

Tôi hỏi tiếp:
─ Chúng tôi muốn tham gia vào buổi cầu vong này được không?

Người phụ nữ đáp:
─ Đa tạ quý ngài, chúng tôi và thân nhân rất may mắn, mời quý ngài làm chủ lễ cầu vong.

Anh Linh và anh Bá ngó tôi, như có ý thúc dục hành lễ, tôi đứng vào vị trí chủ lễ thay vì ấn Tý, nhưng đôi tay tôi bắt ấn Càn-khôn hành lễ vong linh, cúi đầu 4 vái, đọc câu chú Chí Tôn cầu nguyện Người chứng giám, tiếp theo Cầu siêu, Cứu khổ, Giải oan, Vãng Sanh Thần Chú, lấy nước thay rượu làm phép Thánh, lễ thành tôi cúi đầu tống biệt vong linh về cõi Hồng ân.

Sau buổi làm lễ cầu đảo, 1 nữ, 4 nam nhận được tín hiệu của vong nhân, họ rất vui mừng không còn những nét lo âu như lúc trước. Người nữ cho biết:

─ Chúng tôi là năm chị em thúc - bá, có ba thân nhân đồng tử cùng ngày trong trận chiến nơi đây, chúng tôi có người ở Côn Minh, kẻ ở Nam Ninh cứ mỗi năm đồng hẹn đúng ngày này đến núi cầu nguyện cho thân thân, dù đường đi xa, gặp lắm gian nan, chúng tôi cũng không bỏ qua định kỳ nào, nhưng đặc biệt hôm nay là ngày mà chúng tôi tiếp nhận được tín hiệu của thân nhân cho biết: "Đã được xá giải vong linh". Từ đây về sau chúng tôi chỉ làm lễ tại tư gia không đến đây nữa. Năm chị em chúng tôi xin một vái tạ ơn.

Tôi trả lời:
─ Chúng ta vô tình gặp nhau, làm việc tốt cho nhau không nên đáp lễ và tiếp nhận ơn nghĩa, quý vị an tâm trở về. À tôi cũng ở Côn Minh.

Người phụ nữ vui mừng mời:
─ Thưa quý ngài khi nào về Thành đô, nhớ ghé tư gia của chúng tôi nhé, chúng tôi tha thiết mời và hy vọng quý ngài không từ chối, xin quý ngài tiếp nhận thiệp mời này.

Một nam nhân nói theo:
─ Anh em chúng tôi cũng vậy, khi nào quý ngài có dịp đến Nam Ninh, xin mời ghé tư gia của chúng tôi, anh em chúng tôi trân trọng gửi quý ngài thiệp mời này.

Anh Linh thay mặt giới thiệu tên tuổi của anh Bá và tôi, tôi cũng hứa khi về đến Côn Minh sẽ đi thăm họ, mọi người chúc nhau thượng lộ bình an, và chia tay, hẹn ngày tái ngô.

Cuộc chiến biên giới Việt Nam-Trung Quốc, hơn 30 ngày giao tranh đẫm máu sau khi Trung Quốc chính thức rút quân vào ngày 16/3/1979 để lại một bãi chiến trường hủy diệt quá thảm khốc. Trung Quốc dã man sử dụng đạn pháo v.v... xây thịt xương quân đội Trung Quốc, và Việt Nam thiệt mạng trên 150 ngàn người, thường dân tử nạn trên 100 ngàn người, chưa kể vô danh, chiến tranh tạo ra nhiều nghĩa trang chính thức, và nghĩa trang không tên tuổi tọa lạc biên giới những trên đồi núi cao.

Riêng tại làng Lục Xuân có trên 20 ngàn thường dân vô tội tử nạn, nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc cửa ngỏ vào "lồng chim" làng người Việt tị nạn.


Chúng tôi đi chưa được bao xa, lại gặp ngôi mộ tập thể hiu quạnh của quân đội nhân dân Việt Nam có tên số 532, tọa lạc trên hành lang chiến lũy vòng 1, đã 8 năm trôi qua ngôi mộ vô thừa nhận im lìm không hương khói. Khi họ còn là chiến sĩ, Trung ương đảng CSVN tung hô "Quý đồng chí sống vì đảng ta, vinh quang anh hùng" nay người chiến sĩ nằm xuống, những kẻ tung hô to tiếng bỏ mặc đồng chí mình, mồ hoang đất lạnh, một tiếng vinh danh cũng không còn ai đoái hoài! Ngày liệt sĩ trận chiến 17/02/1979 đảng CSVN không muốn nhớ vì chiến sĩ năm xưa đối đầu với Trung Quốc. Ngôi mộ 532 quân nhân tử trận, âm thầm nằm dưới lòng đất quê mình, nhưng nào biết hiện nay là xứ lạ.

Chuyện người CSVN bội bạc đồng chí của họ, chẳng phải chuyện của riêng tôi thế mà chạnh lòng, vì mộ 532 người đồng sinh, đồng tộc Việt Nam, do đó tôi để lòng làm lễ cầu vong cho họ hỏi:

─ Thưa anh Linh, anh Bá chúng ta hạ lều nghỉ đêm nơi này nhé?

─ Tại sao lại nghỉ đêm ở đây, chúng ta đã ước hẹn trước, hạ lều gần làng tị nạn kia mà, chỉ còn 2 giờ nữa là đến nơi.

Buộc lòng phải nói ý định của tôi:
─ Cách đây vài giời, chúng ta đã đi qua hai chiến trường, toàn quân Trung Quốc tử trận, những kẻ còn xác thì được tôn vinh tại nghĩa trang, có kẻ phanh thây không còn thi thể, trở thành hồn siêu lạc phách. Quý anh đã thấy rồi đó, thân nhân của hồn siêu lạc phách, khổ biết chừng nào, họ khóc và kiên nhẫn cầu đảo cả ngày xin gặp vong linh, khi chúng ta đi ngang qua chỉ một cái cúi đầu thôi, thế mà đem đến cho họ một cảm giác thân thiện. Chính chúng ta đã có cử chỉ không phân biệt người đã chết trong chiến tranh này dù Hoa hay Việt.

Còn 532 người nằm dưới mồ này là ai đi nữa, mình cũng nên cầu siêu, làm phép Thánh cho họ, tất cả họ đều đồng tộc với mình làm ngơ sao đành. Người sống dù có thù cho mấy, khi gặp nhau ở xứ người cũng thành thân kia mà!

Em thân thiện với quý anh thế nào thì người khuất mặt cũng dành cho họ một ít thân thiện ấy, em muốn tối nay cầu siêu và làm phép Thánh cho họ một cách long trọng.

Anh Linh và anh Bá nghe tôi tỏ bày thành ý, cũng chấp nhận nói:
─ Ví dụ: Nếu có 100 ngôi mộ, dọc trên hành trình như thế này thì Tâm giải quyết đến bao giờ cho hết?

─ Hai anh cứ chiều theo ý của Tâm một lần này, rồi sau đó mới thấy vi diệu trong đêm nay, Tâm không phải loại người dị đoan, tin nhảm hay quá tín ngưỡng để trở thành ngu muội, Tâm quan niệm sồng sáng, chết sạch.

Chúng tôi làm lều nghỉ đêm bên trái của ngôi mộ tập thể, sau buổi cơm tối, tôi đi hái vài miến lá rừng làm ba chén lương khô lạt và một chung nước lạnh thay cho trà-rượu để trước đầu phần mộ, đến giờ Tý tôi hành lễ, niệm chú Đấng Từ Phụ (Thượng Đế), tiếp theo Cầu siêu, Cứu khổ, Giải oan, Vãng Sanh Thần Chú, lấy nước thay rượu làm phép Thánh, lễ đã thành, tôi cúi đầu chúc tất cả siêu thoát về đất Lành.

Sáng hôm sau trước khi chúng tôi lên đường, anh Linh nói:
─ Giờ Tý đêm qua, quả nhiên linh diệu, Tâm làm một việc rất tình người, anh em chúng tôi động lòng lắm. Chúng tôi có vài suy nghĩ khác, đêm hôm qua cũng để nhắc nhở đảng CSVN đã hết số rồi. Đồng chí của chúng nó chết như thế mà đành bỏ mặt làm ngơ, coi như không có gì cả!

Và một đáng trách khác. Thử hỏi con chó sinh ra ba ngày đã mở mắt, thế mà phần đông người Việt Nam từ ngày có đảng CS đến nay đã 57 năm (3/2/1930 – 3/2/1987) vẫn chưa chịu mở mắt để thấy đảng CSVN hình nhân dạ thú.

Huỳnh Tâm
Paris 17/02/2012