Bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương
Tháng 8 năm 2006, chúng tôi có cơ hội đến Quảng Tây, khởi đầu hành trình đi Nam Ninh, qua Bằng Tường, tham quan tình
hình thương mại biên giới Trung Qu ốc-Việt
Nam, sau đó đi thêm 18 km ,
đến cửa khẩu Hữu Nghị biên giới của Trung Qu ốc và Việt Nam, ghé thăm Tây Lộ mới biết nơi đây khu quân sự
(junshi-xilu) của Trung Qu ốc
chiếm đóng trong lãnh thổ Việt Nam.
Nhân dân cho biết, Việt Nam đã thực sự bị mất một vị trí
chiến lược biên giới Tây Lộ, nhà nước Trung Qu ốc khuyến khích người dân của họ nhập cư bất hợp pháp, một
nguy cơ rất lớn chắc chắn khu vực này không tồn tại thuộc của chủ quyền Việt
Nam, người Việt muốn đến khu này phải nộp lệ phí nhập cảnh.
Theo tình hình người dân cho biết: Nếu đi lẻn qua sông đến
Mang Thị gặp cảnh sát Trung Qu ốc
sẽ bị sát hại vô điều kiện, u ám này đã xảy ra thường
ngày, người dân ở tại đây tuyệt vọng bởi chính quyền địa phương không can thiệp. Có người qua được bên kia sông lý do hầu
hết những người này có tên trong danh sách của hải
quan chuyên tổ chức buôn lậu và đưa người nhập cư bất
hợp pháp, họ tự xem Tây Lộ là phần đất của Trung Qu ốc, tuy trên văn kiện và bản đồ ranh giới không có. Nhà nước
Việt Nam cũng hình dung ra được không còn chủ quyền Tây Lộ, từ xưa nay Trung C ộng xâm lăng nhiều phương thức khác, nếu cứng dừng lại, còn
mềm tiến tới.
Chúng tôi đứng tại "Cổng tình bạn" theo ngôn ngữ
của người Hán gọi như thế. Cổng Hữu Nghị do "Bác" tự ý tạo ra, mục đích
xóa đi lịch sử "Ải Nam Quan" của thời Nguyễn Trãi và xóa trong ký ức
người dân 1000 năm đô hộ giặc Tàu! Nó vẫn còn hiện ra cảnh tượng xâm lăng còn
thuốc súng, tất cả đập vào mắt rất quen thuộc bởi quần
thể kiến trúc vẫn còn nguyên hình thể. Có những người dân địa phương vì lỳ do nào
đó gọi là "Cổng mất tình bạn".
Ải Nam Quan có một ví trí chiến lược rất quan trọng do địa
hình nằm trong một thung lũng giữa hai dãy núi hẹp, nơi thuận lợi nhất về bảo vệ
tránh quân Hán tràn sang. Cổng xây
dựng phía bên trái của núi lớn phần còn lại bên phải của triền núi nhỏ, hai dãy
núi như hai con rồng từ bầu trời rơi xuống ngự lại nơi này, tụ thành ranh giới
thiên nhiên. Đứng trên mặt trước của cổng như
một tòa nhà xây dựng hình thể vuông, bạn có thể thấy rõ mặt trước có lá cờ to tướng
của Trung C ộng, còn trạm kiểm soát phía biên giới Việt Nam lá cờ rất
nhỏ không tương xứng với quốc gia, có thể nói một An Nam khu tự trị đúng hơn. Điều này không sai lầm, bởi Trung
C ộng và Việt Cộng đã ký kết qui định cờ biên giới trong bản
"Kỷ yếu Thành Đô 1990".
Trên đường ở phía trước cổng, người
người nhộn nhịp, đông đúc, hối hả, bận rộn, quay lại và nhìn lên, chữ khắc trên vòm đá cẩm thạch màu đỏ biểu tượng của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Nghị (Chen Yi) ký vào văn bản "Cổng Hữu nghị" hay "Cổng tình bạn"
là một trong chín cổng có liên quan đến Trung Qu ốc.
Theo ghi chép lịch sử, vào đầu thời nhà Hán, nơi
này chỉ thiết lập một rào cản, đặt tên "Cổng gà gáy", và sau đó vào thời Pháp "Ải Nam Quan" (South Gate) liên tục
đổi tên thành "Cổng giới thủ" (Jieshou). Nhà Minh và nhà
Thanh gọi thị trấn này là "Nam Môn", đến thời Hồ Chí Minh tự ý đổi
thành "Mục Nam Quan", sau 10 năm một
lần nữa Hồ Chí Minh thông báo đề nghị Quốc hội
Trung C ộng công nhận "Cổng Hữu nghị".
Ngày 01 tháng 12 năm 1907, tiền thân cách
mạng Trung
Qu ốc, Tôn Trung Sơn có ở lại một thời gian tại pháo đài Kim Kê Sơn
(Jinjishan) lãnh đạo cách mạng, nơi đây có thị trấn
Ải Nam Quan, cho nên Tôn Trung Sơn cho cái tên mới là "Cổng Tình bạn khởi nghĩa",
chiến đấu với nhà Thanh bảy ngày đêm, mặc dù kết quả
cuối cùng kiệt sức và thất bại, sự cai trị của triều đại nhà Thanh đã đến lúc lung lay.
Ải Nam Quan một biểu tượng ranh giới Trung Qu ốc-Việt Nam theo lịch sử quá rõ ràng, do đó có tầm vóc rất quan trọng giữa chủ quyền của hai quốc gia
biệt lập, nhưng đến thời Hồ Chí Minh tự ý thủ tiêu, bán cho Trung Qu ốc thành lập "Cổng tình hữu nghị" với một ý nghĩa
liên hợp. Ngày nay người Hán thường gọi là An Nam khu tự trị hay Việt Nam chư hầu.
Năm 1953, Cộng hòa Nhân dân của Hội
đồng Nhà nước Trung Qu ốc
thông qua, "Cổng hữu nghị" đã được đổi tên thành "Mục Nam
Quan". Năm 1965, được đổi tên thành "Cổng Hữu nghị", tương ứng với cùng
một bên của cửa ngõ vào tên của Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam và cuộc
chiến tranh chống Pháp chống VNCH, đây là con đường nguồn
chiến lược quan trọng của Trung Qu ốc,
hơn nửa thế kỷ cung cấp cho chiến tranh Việt Nam, cổng Hữu Nghị đóng một vai trò quan trọng trong việc trao đổi chính trị, kinh tế và văn hóa song phương giữa
Trung C ộng và Việt Cộng. Chúng tôi đi xem viện bảo tàng hải quan, nhớ lại lịch sử quá khứ có những
cuộc đàm phán biên giới Việt-Trung. Lịch sử Ải Nam Quan đã có lâu
đời nhưng Trung
C ộng thường chờ thời cơ cướp
Ải, Trung C ộng quan hệ láng giềng theo phong cách trường kỳ chiến
tranh.
Hai bên đơn giản hóa qua nhiều thủ tục nhập cảnh, xuất cảnh,
ghe thuyền đưa người Trung Qu ốc đi buôn lậu có tổ chức, nhập cư bất hợp pháp. Nguồn: Tài
liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Nguồn tin chính thức của người Trung Qu ốc nhập cư bất hợp pháp cho rằng: Kể từ khi Việt Nam liên kết
với Trung
Qu ốc sinh ra buôn lậu hàng
hóa trái phép, trốn thuế hải quan, nơi đất hứa trộm cướp chính trị của Trung Qu ốc, treo đầu dê bán thịt chó, chính quyền địa phương của Việt
Nam thông đồng mua bán cho xâm lược bất động sản tại biên giới. thuở xưa dân tộc
Việt Nam đấu tranh gian khổ vì tự do, độc lập, thời nay quá nhu nhược sùng bái Trung C ộng lên trên dân tộc Việt Nam, chỉ vì Việt Cộng chấp nhận bốc
thơm hơi người Hán!
Sau khi Mao Trạch Đông thành lập nước Trung Hoa C ộng Sản, đồng chí Mao muốn lãnh đạo các thế hệ Cộng sản đầu
tiên của Châu Á, dựa trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế và các lợi ích chung
về chính trị và chung sống trong quĩ đạo của sự hiểu biết chung "chia tài
sản lợi ích cho Mao", với tầm nhìn chiến lược thiêu thân cho
"Bác" đảng, cho nên ngày nay Đảng cướp phi thường, nhờ đó sống được trong
tài sản dân oan, lòng không sợ hãi, dũng cảm lớn nhờ quyết định tịch thu tải sản
của dân thương mại, đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam nhờ cửa miệng. Mặc khác nhờ
Trung Qu ốc hỗ trợ, và giúp đỡ Việt Cộng chống Pháp, hai cuộc chiến
tranh giải phóng độc lập nhờ Trung Qu ốc,
và đã hy sinh quá nhiều. Quan hệ Việt Nam được gọi là "Tình đồng chí và
tình anh em". Cuối những năm 1970, các khu vực biên giới Trung-Việt chứng
kiến cuộc xung đột vũ trang quy mô lớn, các mối quan hệ song phương đã chạm
đáy.
Ngày 03 đến 4 tháng 9 năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười và Cố vấn Trung ương đảng Cộng sản Việt
Nam Phạm Văn Đồng đã đến Thành Đô Trung Qu ốc,
chầu Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng tổ chức một cuộc Hội nghị bí mật cấp
cao, hai bên đã đạt được "bỏ qua quá khứ và hướng tới tương lai", đảng
Cộng sản Việt Nam cần đồng thuận với Trung C ộng
để mưu cầu một bước ngoặc trong quan hệ song phương cùng kẻ anh em lân bang Việt
Nam.
Tháng 11 năm 1991, hai nước "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký Hiệp định tạm
thời về việc xử lý các vấn đề biên giới" còn gọi là ''Hiệp định tạm thời
''. Hai bên quyết định duy trì nguyên trạng đường biên giới, giải quyết hòa
bình các vấn đề biên giới giữa hai nước thông qua đàm phán. Những nhà lãnh đạo Trung Qu ốc, công nhận Việt Nam cần phát triển quan hệ láng giềng tốt;
phải đối mặt và giải quyết vấn đề biên giới.
Lãnh thổ biên giới phức tạp và nhạy cảm.
Vào tháng 3 năm 1993, thứ trưởng Trung Qu ốc phụ trách với các nước láng giềng châu Á như mối quan hệ
Việt Nam luôn luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu. Quan hệ Việt Nam
theo lịch sử từng thời kỳ (cướp nước từng giai đoạn), đang xen vào một số đối đầu
bởi Việt Nam thường thay đổi nhân sự, nhiều vấn đề có cảm giác quốc gia này, phức
tạp và nhạy cảm, đặc biệt là vấn đề biên giới; họ đối phó rất khó khăn bởi Việt
Nam chưa thuần Trung Qu ốc.
Thủ tướng Chu Ân Lai đã từng
nói, đối phó với các vấn đề biên giới cần nghiên cứu lịch sử của đối phương, để
hiểu và phân biệt lịch sử trước khi đối phó hay để tìm một giải pháp quan hệ
song phương, các vấn đề biên giới Trung-Việt cần một số hiểu biết nguyên nhân.
Vấn đề biên giới Trung-Việt, chủ yếu liên quan đến ba (3)
khía cạnh, đó là "biên giới đất liền", "phân định Biển
Đông", "Vịnh Bắc, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Vấn đề biên giới trên đất là một di sản lịch sử.
Từ biên giới đất liền Việt Nam, đến ngã ba Thập Tằng Đại
Sơn của ba nước Việt-Trung-Lào, ngã ba cũ của ba nước kể từ khi dòng chảy từ
tây bắc xuống Đông Nam, từ Vân Nam, Quảng Tây đoạn vào phân khúc cho đến sông Bắc
Luân chảy vào Vịnh Bắc Bộ chỉ có tổng chiều dài 1347km.
Biên giới đất liền đã được phân định, nó là cơ sở truyền thống
giữa sự hình thành lịch sử Việt Nam do nhà Thanh của Trung Qu ốc và Chính phủ Pháp cuối thế kỷ thứ 19 thông qua "tiếp
tục vòng tròn thảo luận điều đặc biệt về biên giới" và "tiếp tục thảo
luận khu vực đặc biệt phần đính kèm từng chương 15 hiệp ước" và phân định
phần biên giới cắm mốc theo văn bản, gọi tắt là "Hiệp ước Pháp-Thanh",
theo mô tả trong số đó phần Vân Nam là 710km đường biên giới dài, núi lớn Sơn Cao Lĩnh Đại, chủ yếu là rừng đầu nguồn, sau Trung Qu ốc và Pháp thành lập một trụ cột 70 phân giới cắm mốc; Quảng
Tây chiều dài phân đoạn 637km, chủ yếu là đất vôi Ni Nham Đông (貎 karst), lấy
sườn núi làm ranh giới, sau khi Pháp đã thiết lập 240 trụ cột phân giới cắm mốc.
Trong một số phần phân giới cắm mốc biên giới dọc theo các con sông và suối.
Sau hiệp định biên giới đất liền 1999 phía Trung C ộng tìm mọi cách kích thích và tạo điều kiện cướp đất vẽ lại
bản đồ biên giới, trong quá trình xâm nhập bị phát giác, cảnh sát Trung Qu ốc lý luận đó chỉ là người dân đi buôn lậu...... nhưng cũng
không phải là vô cớ bởi tự dưng trong khu rừng biên giới của Việt Nam có làng
người hoa, phải chăng có sự lợi nhuận của chính quyền địa phương dung túng cho
phép họ phát triển nhập cư lậu.
Đối với việc phân định ranh giới cần phải thông qua các hiệp
ước quốc tế, được công nhận bởi chính phủ hiện tại và kế tiếp của Việt
Nam-Trung Quốc. Cơ bản của xu hướng biên giới đất liền cần rõ ràng. Nhưng vì
nhiều lý do "Bác" và một số địa phương tham nhũng không còn chủ đích
phân định vị trí chính xác theo đường biên giới của hai bên, cũng như sự hiểu
biết khác nhau của chỉ đạo không cụ thể vì lợi quyền trước mặt, do đó, có một số
khu vực tranh chấp người nhập cư bất hợp pháp vượt quá đường biên giới.
Hồ Chí Minh bí mật bán đất nước Việt Nam.
Sau khi Trung Ương Đ ảng Cộng sản Trung Qu ốc
thành lập nước Trung Hoa ,
vào năm 1957, Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng Lao Động (WPK) Việt Nam ký vào Hội nghị
nhượng Việt Nam "vạn niên" cho Trung Qu ốc; sau đó vào năm 1958 Phạm Văn Đồng tham dự Hội nghị biên
giới khẳng định bằng việc trao đổi nghị định thư. Trước khi hai chính phủ để giải
quyết các vấn đề biên giới thông qua đàm phán, hai bên cần duy trì ranh giới
nghiêm ngặt theo qui định của hiện trạng và điều này Trung Qu ốc tạo ra chiến tranh tha hồ chiếm đất Việt Nam để có cớ giữ
được nguyên trạng.
Phân định Vịnh Bắc Bộ và hàng hải với sự phát triển của
pháp luật hiện tại của biển, và Việt Nam chỉ có chủ quyền ven biển, Trung C ộng mở rộng các quyền và lợi ích phát sinh từ yêu sách lấn
biển.
Vịnh Bắc Bộ là vịnh nửa kín, nằm trong vùng biển Nam Trung Qu ốc ở hai bên phía Tây Bắc, Đông Bắc và Tây được bao quanh bởi
các lãnh thổ của Trung Qu ốc
và Việt Nam, có 184 hải lý tại điểm rộng nhất của nó, là điểm hẹp nhất là 112 hải
lý. Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ đã ký nhượng lãnh thổ và lãnh hải vào những
năm 1957, 1958, 1961 và 1963 đã ký "bốn thỏa thuận thủy sản" về các vấn
đề liên quan đến thẩm quyền lãnh hải thủy sản từ 3-12 dặm tương ứng trên biển
Việt Nam, và tạo điều kiện cho hợp tác nghề cá giữa hai nước. Đối với vùng biển
từ 3-12 hải lý khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, "bốn thỏa
thuận" giữa hai nước được xem xét cùng ngư dân đánh bắt cá khu vực, ngư
dân Trung
Qu ốc được "Tự do hoạt động
trên biển", những ngư dân của hai nước hoạt hộng phù hợp với thói quen cổ
xưa của các thế hệ, có thể xâm nhập tự do để hoạt động khai thác, do đó tạo
thành hai nhóm, "Ngư dân Việt Nam có quyền đánh cá truyền thống ven vùng Vịnh
bắc Bộ".
Nhân dân Việt Nam cần chú ý ở điểm này, khá quan trọng theo
văn bản trên của Hồ Chí Minh đã ký kết với Trung C ộng. "Ngư dân Việt Nam có quyền đánh cá truyền thống
theo ngư trường truyền thống ven vùng Vịnh bắc Bộ". Bời vì ngư nghiệp Việt
Nam xưa nay dùng thuyền nhỏ cho nên không được đánh bắt cá xa vùng biển đã qui
định. Còn ngư dân Trung C ộng
được "Tự do hoạt động trên toàn vùng biển", ngư dân Trung C ộng hoạt hộng phù hợp với thói quen cổ xưa của các thế hệ,
có thể xâm nhập tự do để hoạt động khai thác bất cứ nơi nào trên biển, lý do
ngư nghiệp Trung
Qu ốc có thói quen sử dụng
thuyền lớn. Hồ Chí Minh bán nước như trên thế mà cả dân tộc vẫn gọi "Cha
già dân tộc" có nghĩa là dân tộc Việt Nam cùng đồng lõa với Hồ Chí Minh. Nước
mắt Tổ Quốc rơi lệ, than ôi từ đây Việt Nam đã ký thác cho Trung Qu ốc, đất nước quá đau lòng!
Đến năm 1970, Trung C ộng
tiến mạnh cướp biển do sự phát triển nhu cầu tiêu thụ dùng súng đạn uy hiếp
thay thế pháp luật hiện đại của Quốc tế, chủ quyền Trung Qu ốc sẽ mở rộng biển ra ngoài từ lãnh hải đã được Quốc tế qui
định, và dần dần thiết lập một chế độ pháp lý của thềm lục địa trong vùng đặc
quyền kinh tế. Theo đó, Trung Qu ốc
và Việt Nam đã nêu lên chủ quyền của đất nước kéo dài đến vùng biển Vịnh Bắc Bộ,
quyền lợi ích của tất cả đều qua tuyên bố của Trung Qu ốc. Chính nhà nước Việt Cộng cố tình tạo ra hai bên có các
yêu sách chồng chéo và mâu thuẫn. Về vấn đề này, Trung Qu ốc không thể tự cho mình được quyền phù hợp vị trí mà không
thông qua tham khảo luật thực tiễn Quốc tế, tự ý giải quyết thông qua đàm phán
với Hồ Chí Mnh, tự nò trở thành thông lệ của đảng "Bác".
Trường Sa thuộc quyền Việt Nam giữa 3 độ 37 phút vĩ độ Bắc
và 12 độ 40 phút kinh độ Đông 108 độ 10 phút đến 119 độ, nhóm lớn nhất các rạn
san hô ở Biển Đông, bao gồm khoảng 230 hòn đảo, đá ngầm, bãi cát ngầm; bãi cát
thành phần bao gồm 25 hòn đảo, 128 ra khỏi nước hoặc ẩn trong đá và 77 ẩn trong
cát bãi biển trong nước.
Quần đảo Hoàng Sa từ thời cổ đại là một phần không tách rời
lãnh thổ Việt Nam. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và vùng biển lân cận có chủ
quyền không thể chối cãi. Người Việt Nam phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa,
sau các triều đại trước của Việt Nam cho rằng việc thực hiện thẩm quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa sẽ được từ một phần rất lớn của lãnh thổ
Việt Nam. Về mặt lịch sử, quần đảo Hoàng Sa đã từng chiếm đóng của Pháp. Vào cuối
chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Việt Nam đã phục hồi quần đảo Hoàng Sa.
Sau đó, cho đến những năm 1970, chủ quyền của Việt Nam đối với các tranh chấp
quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại trong các hội nghị Quốc tế.
Trong năm 1970, Việt Cộng đã hai lần tổ chức các cuộc đàm
phán biên giới với Trung C ộng,
chủ yếu thảo luận các vấn đề biên giới đất liền và vấn đề phân chia Vịnh Bắc Bộ,
cơ bản có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hoà.
Tại thời điểm đó, vì nhiều lý do, nói rằng trong các cuộc
đàm phán giữa hai nước. Trên thực tế, những cuộc trả giá Việt Cộng đổi lấy vũ
khí, Trung
C ộng đã nói hết sự thật. Thời
gian đó, hai bên đã giải quyết các vấn đề biên giới đất liền và phân định Vịnh
Bắc Bộ thông qua các điều kiện đàm phán.
Sau đó, biên giới đất liền giữa Trung Qu ốc và Việt Nam hay trong Vịnh Bắc Bộ được mở rộng không còn
tranh chấp, kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuy một phần nhỏ có đổ máu tại
biên giới, hệ quả của mối quan hệ song phương tạm thời ổn định.
Vấn đề chiến tranh biên giới ngày 17 tháng 2 năm 1979 đến
năm 1984 và Trường Sa 1988, tất cả 3 bài học đẫm máu về phía Việt Nam. Trên thực
tế, sau khi bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, giữa những quan chức hai bên có
thái độ tương kính không thù địch, trái lại nhân dân bình thường vẫn chưa loại
bỏ hoàn toàn về quan điểm tranh chấp giữa biên giới của hai nước qua lãnh thổ
và lãnh hải đã bị mất, rất khó khăn duy trì và ổn định trong lòng nhân dân Việt
Nam.
Tháng 12 năm 1992 thủ
tướng Lý Bằng (Li Peng) đến thăm Việt Nam, tổ chức các cuộc đàm phán với các
nhà lãnh đạo Việt Nam, hai bên giải quyết các vấn đề biên giới giữa hai nước đã
trao đổi và đạt đến một sự đồng thuận cấp chính phủ, bắt đầu đàm phán càng sớm
càng tốt, còn lại các vấn đề biên giới do chuyên gia tiếp tục đàm phán; phù hợp
với luật pháp Quốc tế.
Tất cả những văn kiện biên giới họ thường viện cớ theo qui
định "Quốc tế", nếu đem ra Quốc tế nhất định không có văn kiện nào hợp
pháp. Tất nhiên Việt Nam cần phải che dấu bộ mặt bán nước qua bịa đặt vấn đề chấp
nhận tiêu chuẩn trên nguyên tắc cơ bản giải quyết biên giới và tranh chấp lãnh
thổ, lãnh hải ổn định theo chiều hướng phù hợp thúc đẩy của Trung Qu ốc tiến trình đàm phán với những nguyên tắc có bảo vệ quyền
tiến chiếm, việc giải quyết đầu tiên của tranh chấp lãnh thổ, trong đó có vấn đề
trên biển và đất liền; trước khi quyết định đàm phán Trung Qu ốc tự làm hết thủ thục đến ngày hẹn Việt Cộng đến Bắc Kinh
dùng bút ký, Việt Nam không được phản đối hay đưa ra ý kiến riêng, do đó đường
biên tranh chấp lãnh thổ với hành động phức tạp đã cho Trung C ộng thực hiện thời cơ xăm lăng thêm qua đàm phán.
Cho đến nay, Trung C ộng
và Việt Cộng vẫn chưa thành lập đường biên giới rõ ràng, lúc nào hai bên cũng bắt
đầu đàm phán biên giới cấp Chính phủ song phương, cấp cao để đạt được một cơ chế
đồng thuận, mỗi lúc như vậy lãnh hải lãnh thổ Việt Nam bị teo lại, sự thật Việt
Nam không còn chủ quyền để đối phó với kẻ cùng cực bành trướng.
Chuyến thăm của Lý Bằng (Li Peng) đến Việt Nam vào tháng 12
năm 1992, chuyên gia Trung Qu ốc
và Việt Nam đã báo cáo biên giới được thực hiện trong vòng bí mật, đầu tiên ở Bắc
Kinh. Sau khi đạt được sự đồng thuận các nhà lãnh đạo của Trung Qu ốc-Việt Nam, ký vào hồ sơ bán nước tháng 2 năm 1993. Tiếp
theo, hai bên tổ chức một vòng đàm phán mới về biên giới tổ chức tại Hà Nội. Tất
cả những cuộc đàm phán tại Hà Nội hầu hết bí mật không được loan tin trên báo
chí. Hai bên đã thảo luận về biên giới đất liền giữa hai nước và phân định biển
Vịnh Bắc Bộ. Trung C ộng và Việt Cộng
đôi khi loan tải tin ngắn nói về việc "duy trì" sự ổn định trong khu
vực biên giới, khu vực vùng Vịnh Bắc Bộ và các vấn đề khác. "Duy trì"
theo ngôn ngữ ngoại giao đồng nghĩa bí mật bành trướng và bí mật bán nước.
Thông qua liên lạc trong hai bên có một số hiểu biết về vị
trí biên giới.
Kể từ đó, theo sự đồng thuận của hai nhà lãnh đạo, tổ chức
các cuộc đàm phán biên giới cấp Chính phủ vào thời điểm thích hợp, kết hợp với
tình hình trong hai vòng đàm phán của nhóm chuyên gia, Trung C ộng tiếp xúc Bộ Ngoại giao và các chuyên gia khác cho phép
Việt Nam quan hệ thương thuyết hòa giải vấn đề biên giới và lãnh thổ đã được
nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích sâu rộng đã được phê duyệt bởi trung
tâm quyền lực Bắc Kinh, ngoài ra các cơ sở Bộ Ngoại giao, những cơ quan khác có
liên quan các phái đoàn chính phủ Việt Cộng phải làm theo nhiệm vụ thừa hành
công tác đã chỉ định.
Những dự thảo của Trung C ộng,
chúng tôi đã được biết đến không thấy một điểm nào để Việt Nam hy vọng có chủ
quyền. Chúng tôi lấy thái độ tích cực và nhiệm vụ một công dân Việt Nam làm nhiệm
vụ chuyển tải thông điệp quan trọng mất nước Việt Nam đến với công luận. Việt Cộng
đang đứng trước những cuộc đàm phán không thực dụng mang lại cho đất nước vô cùng
thảm họa càng không có tính xây dựng đất nước Việt Nam, Trung C ộng và Việt Cộng nhất trí quan điểm cho rằng phát triển các
thành phố để che đậy việc giải quyết cuối cùng chấp nhận Trung C ộng hoá Việt Nam!
Ngoại trưởng Trung C ộng Tiền Kỳ Thâm và Ngoại trưởng Việt Cộng Nguyễn
Mạnh Cầm
Nguyễn Mạnh Cầm cho biết các chuyển động cơ bản.
Ngày 24 đến 29 tháng 8 năm 1993, ở vòng đàm phán đầu tiên tại
Bắc Kinh, cấp chính quyền chính thức nêu vấn đề biên giới.
Ngoại giao Trung C ộng Tiền Kỳ Thâm người đứng đầu phái đoàn, Thứ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan trưởng phái đoàn chính phủ, đánh đầu Việt Nam đi
chệch hướng. Trong năm ngày, hai bên đã tổ chức ba phiên họp toàn thể và hai cuộc
đàm phán riêng biệt, hai bên nhóm chuyên gia cũng đã tổ chức hai cuộc họp. Tiền Kỳ Thâm chủ trì cuộc họp toàn thể đầu tiên
và đề nghị phía Việt Nam theo quy định của Trung C ộng.
Tiền Kỳ Thâm cho rằng những thay đổi đáng kể trong tình hình quốc tế, Trung Qu ốc và Việt Nam đã đạt được bình thường hóa quan hệ theo
tình hình mới, hai bên đã tổ chức có ý nghĩa rất lớn về đàm phán biên giới cấp
Chính phủ.
Sau đó, Tiền Kỳ Thâm
xây dựng trên tầm nhìn của Trung Qu ốc
cho các cuộc đàm phán kế tiếp. Tiền Kỳ Thâm
thẳng thắn nói rằng các giải pháp của các vấn đề biên giới nên được dựa trên
các nguyên tắc song phương cho vấn đề dễ dàng hơn trước. Hai bên cần đề cao tập
trung vào giải quyết các cơ sở đất liền tại biên giới, theo "qui ước quốc
tế" và tham khảo thông lệ quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc phân chia hợp
lý của Vịnh Bắc Bộ. Trong mối liên hệ này, Tiền
Kỳ Thâm đã thực hiện các khuyến nghị cụ thể, bao gồm nguyên tắc và thủ tục
cơ bản của những cuộc đàm phán.
Về vấn đề Quần đảo Trường Sa,
Tiền Kỳ Thâm đã phát biểu, đưa ra vấn đề rất phức tạp cho cả hai bên để Trung Qu ốc được tự do khai thác trong vùng Biển Đông đang tranh chấp,
chính là "gác lại tranh chấp và tìm kiếm phát triển chung", cùng nhau
giữ gìn hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực Biển Đông. Quả nhiên Tiền Kỳ
Thâm có hậu ý đưa Việt Nam vào kế tự động mất Biển Đông.
Ngoài ra, Tiền Kỳ Thâm cũng đã nới lỏng các bên tranh chấp
đưa ra một số ý kiến, kể cả nỗ lực chung để bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển
Đông, tạm thời tránh không thể giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bởi ảnh hưởng đến sự phát triển của mối quan hệ
song phương. Trung C ộng chọn quan
hệ song phương làm áp lực với Việt Nam.
Đối với ý kiến Tiền Kỳ Thâm nếu Vũ Khoan thực hiện là tích
cực rơi vào lợi ích của Trung C ộng.
Ông nói rằng phía Việt Nam đã đồng ý để cho Trung Qu ốc soạn thảo "các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận"
Biển Đông, trên biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ phân định theo nội dung, hai
bên đã đạt được một mức độ cao của tính nhất quán để giải quyết các vấn cơ sở về
biên giới trên bộ. Vũ Khoan cho biết phía Việt Nam đã đồng ý làm việc với Trung Qu ốc về vấn đề đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, mà chính phía
Việt Nam có phản ánh mức độ lớn nhất có tính linh hoạt.
Vũ Khoan thường không tiết lộ về thân thế MSS của mình,
nhưng trong vòng đàm phán đầu tiên, khi ông nói về tầm quan trọng của khu vực
phía Bắc Vịnh Việt Nam, một chút vui mừng. Ông nói rằng: "Nếu phía Vịnh Bắc
Bộ của Việt Nam làm con của nước lớn không thiệt thòi, như một trẻ em trong
lòng mẹ", nâng cao vùng Vịnh Bắc Bộ mở rộng tại 10 tỉnh ở Việt Nam 15 triệu
người, và rất quan trọng đối với Việt Nam. Hiện nay Việt Nam khó có thể chấp nhận
quan điểm của Trung Qu ốc
về các nguyên tắc phân chia cổ phần của Vịnh Bắc Bộ.
Sau đó, ông Vũ Khoan đề nghị "Quần đảo Trường Sa" và "vấn đề đảo
cát trong dự thảo văn bản sẽ đòi hỏi cả hai bên các nguyên tắc cơ bản của thỏa
thuận", "Trường Sa", "cát", vấn đề (Trường Sa và Hoàng
Sa của Việt Nam chúng ta gọi là "quần đảo Trường Sa" và "hòn đảo
cát"). Lầu đầu tiên, Vũ Khoan đưa ra biên giới đất liền phân định đơn giản,
Tiền Kỳ Thâm tóm tắt cho rằng "những
sự đồng thuận của cả hai bên về các vấn đề biên giới đất liền, và được hoàn
toàn khẳng định". Sau đó, Tiền Kỳ Thâm
trình bày quan điểm của Trung Qu ốc
trên vịnh Bắc Bộ.
Những văn kiện bí mật bán nước của Việt Cộng.
Hai bên đã tham khảo nhiều lần, thậm chí còn những ý kiến đồng
thuận lập đi lập lại, hai bên cuối cùng đã đạt được thỏa thuận về dự thảo văn
bản các "nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề biên
giới nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" và ký kết biên bản của các cuộc đàm
phán.
Ngày 18 tháng 10 năm 1993, phái đoàn chính phủ Trung Qu ốc Tiền Kỳ Tham thay mặt cho chính phủ đứng đầu chuyến đi đặc
biệt đến Hà Nội, Việt Nam, với người đứng đầu phái đoàn chính phủ Vũ Khoan cùng
ký cùng Trung
Qu ốc "giải quyết vấn đề
thỏa thuận và nguyên tắc cơ bản biên giới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ".
Trong "các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", hai
bên khẳng định trên cơ sở của sự chung sống hòa bình, thông qua thương thuyết
hòa giải giữa hai nước, bao gồm cả các vấn đề hàng hải và biên giới đất liền, từ
thực tế của hai bên", hiện đang tập trung vào giải quyết các vấn đề biên
giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ. Và đồng thời, tiếp tục cuộc đàm phán về vấn đề
trên biển, để đạt được một giải pháp cơ bản và lâu dài".
Về vấn đề biên giới trên đất liền, "các nguyên tắc cơ
bản của thỏa thuận" quy định rằng "hai bên nhất trí xoá hiệp ước
Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm 1887 đã ký" tiếp tục diễn giảng và thảo luận
hiệp ước Pháp-Thanh. Khu vực sai dịch tiếp tục thảo luận và loan tải bài báo đặc
biệt các Chương có đính kèm "và được công nhận hoặc được phát triển phù hợp
với quy định của nó và dựng lên các văn bản xác định ranh giới và bản đồ, và
theo quy định của pháp luật dựa trên các trụ cột, phê duyệt tất cả về đường
biên giới giữa Trung Qu ốc
và Việt Nam", có được phương thức giải quyết các vấn đề và khu vực tranh
chấp, cuối cùng đã ký hiệp ước biên giới.
Về việc phân chia vùng Vịnh Bắc Bộ "các nguyên tắc cơ
bản của thỏa thuận", tuyên bố: "Hai bên nhất trí cho phù hợp với luật
pháp quốc tế và gắn với các thông lệ quốc tế, phân chia Vịnh Bắc Bộ thông qua
đàm phán" Để kết thúc này, "hai bên cần thực hiện theo các nguyên tắc
công bằng và xem xét tất cả các trường hợp có liên quan Vịnh Bắc Bộ để đạt được
một giải quyết công bằng".
Hai bên cũng nhất trí ngay sau khi các nhà lãnh đạo phái
đoàn chính phủ, thành lập các nhóm công tác hỗn hợp và biên giới đất liền cách
chia nhóm làm việc chung Vịnh Bắc Bộ để thảo luận về các tranh chấp giữa hai nước
để giải quyết vấn đề này, việc soạn thảo các hiệp ước và hiệp định biên giới
phân chia khu vực phía Bắc Vịnh, nộp cho hai bên đầy đủ đã ký thay mặt.
"Các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận" cho việc giải quyết cuối cùng
của vấn đề biên giới giữa hai nước đã đặt một nền tảng pháp lý vững chắc.
Trong chuyến thăm này, Tiền Kỳ Thâm đã tổ chức các cuộc đàm
phán mở rộng với Vũ Khoan, thảo luận các vấn đề đàm phán biên giới và các mối
quan hệ song phương. Tiền kỳ Thâm cũng đã gặp gỡ với Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Nguyễn Mạnh Cầm.
Tiền kỳ Thâm với sự đồng thuận đạt được giữa hai bên rất
quan trọng, cụ thể là: Thứ nhất, phù hợp với tinh thần của chung hai bên sau
khi dễ dàng, đàm phán giải quyết lần đầu của biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ,
vấn đề phân định ranh giới. Thứ hai, trong quá trình giải quyết, hai bên đã phấn
đấu để duy trì đất liền biên giới và bình tĩnh thảo luận Biển Đông, tránh được
một số những điều khó khăn.
Tiền kỳ Thâm ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ
"Cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam", chúng tôi tôn trọng sự tuyệt vời
cho các bậc tiền bối cách mạng, chúng tôi đã đọc thơ Hán của người Trung Qu ốc (HCM), biết ông ấy yêu văn hóa truyền thống của mình, đầy
cảm xúc thân thiện với Trung Qu ốc.
Hồ Chí Minh trong những năm đầu của mình tham gia vào các hoạt động cách mạng Trung Qu ốc với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và các nhà lãnh đạo khác của Trung Qu ốc của các thế hệ đi trước đã giả mạo một "tình bạn
sâu sắc".
Theo sự nhất trí của các nhà lãnh đạo của Trung Qu ốc tại Việt Nam "các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận"
hai bên đã ký, Trung Qu ốc
và Việt Nam đã chính thức tổ chức các cuộc đàm phán biên giới, và dần dần thiết
lập một cơ chế đàm phán ba cấp trong quá trình đàm phán:
1 - Cấp cơ chế đàm phán Chính phủ, thông qua hai chính phủ
tương ứng để đàm phán các thành phần của đoàn đại biểu, các cuộc đàm phán được
tổ chức luân phiên tại hai nước, Thủ trưởng của cả hai có cuộc đàm phán chủ
trì. Cấp Chính phủ theo cơ chế đàm phán chịu trách nhiệm chính là để thực hiện
liên quan đến biên giới lãnh thổ chủ yếu và các vấn đề chính của cuộc đàm phán
chính thức. Cấp các nhóm làm việc chung và hướng dẫn công việc của các nhóm
chuyên gia để xem xét và xác nhận các kết quả của các cuộc đàm phán nhóm làm việc
hai bên doanh và các nhóm chuyên gia.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999 đã ký "Cộng hòa nhân dân Trung Qu ốc ký Hiệp ước đất liền biên giới và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam" tại Trung Qu ốc-Việt
Nam, vào ngày 25 tháng 12 năm 2000 đã ký "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký vùng lãnh hải
của Việt Nam ở phía Vịnh Bắc Bộ song phương. Sau khi vùng đặc quyền kinh tế thỏa
thuận phân định thềm lục địa", trên cơ chế này đương nhiên Trung C ộng được thừa hưởng.
2 - Cấp thứ hai, nhóm làm việc chung biên giới đất liền được
thành lập theo cơ chế đàm phán cấp chính phủ, các nhóm làm việc chung được phân
công đàm phán cơ chế và các ban chuyên gia trong vấn đề Vịnh Bắc Bộ. Hai nhóm
làm việc và một nhóm chuyên gia của hai nước là một phần của các phái đoàn
chính phủ.
3 - Cấp thứ ba, nhóm chuyên gia được thành lập theo các
liên bang biên giới đất liền, các nhóm làm việc chia công tác hỗn hợp phân định
Vịnh Bắc Bộ, bao gồm biên giới đất liền với Hội thẩm đoàn biên giới và tiểu tổ
lập bản đồ dưới đất trên không cùng các chuyên gia kỹ thuật Vịnh Bắc Bộ, gọi
chung chuyên gia Tập đoàn Vịnh Bắc Bộ.
Mao Trạch Động công nhận Hồ Chí Minh nằm trong bóng lá của
cách trang phục Trung C ộng.
Theo đồng chí Hoa Nam
bí danh "Việt" người giới thiệu Hồ Chí Minh đến Việt Nam thành lập mật
khu giải phóng cho đến lúc thành công, dù Hồ Chí Minh ở Việt Nam lãnh đạo tối
cao đã được phục vụ như một Hoàng đế, nhưng vẫn không hài lòng nếu như ở quê
cha đất Hán.
Nơi ở theo sự giả nhân đạo đức, sống trong một ngôi nhà sàn
nhỏ tại phía rừng sau những tòa nhà lớn, tất nhiên không ai được lai vãng đến gần
dinh Chủ tịch, nơi vừa làm nhà ở và văn phòng, nơi đây rất an toàn và những Hội
nghị Bộ Chính trị cũng chủ trì tại đây, những Hoa Nam Trung Cộng bí mật chỉ đạo Hồ Chí Minh hoạt động và tiếp tục sống
đơn giản gần gũi với thiên nhiên, nhưng phía sau về đêm là một cung đình tráng
lệ để hoàng đế Hồ Chí Minh hưởng thụ. Những Hoa Nam thuộc quyền phục vụ cho Hồ Chí Minh cũng hiểu rằng ông
đang sống đạo đức giả, cao thượng trong phòng the, phong cách sống khắc khổ
theo đế vương đi du hý tại Hà Nội. Hồ Chí Minh vui thú câu đối của Trung Qu ốc, tự xem mình là đệ tử của Khổng Tử được giáo dục triết học
"thâm sâu Hán".
Huỳnh Tâm