Cải cách ruộng đất tại miền Bắc sau sáu mươi hai năm trước (1953-2015).
Trong suốt thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh lãnh tụ được gọi là Đảng Lao Động tên nước Cộng hòa Dân chủ đã khởi động một phong trào cải cách ruộng đất mạnh tay quá trớn. Theo quy định cải cách ruộng đất nông nghiệp của đảng ban hành, sẽ có sự phân phối sử dụng đất nông nghiệp hoặc quyền chuyển đổi.
Cải cách ruộng đất - Thuật ngữ này dùng để chỉ số của các cá nhân, tập thể sử dụng nhiều đất hoặc đất địa chủ lớn, nay chuyển giao quyền sử dụng đối với đất canh tác nông nghiệp. Có thể hoặc không được bồi thường trong quá trình chuyển quyền sở hữu, nó cũng có thể đủ điều kiện để các chủ sở hữu đất đồng ý hay không đồng ý thực hiện. Cải cách ruộng đất cũng một cách tiếp cận ôn hòa. Nhưng các nước xã hội chủ nghĩa ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam sử dụng các phương tiện tàn bạo cực đoan, khủng bố, giết người để thực hiện cải cách ruộng đất. Nói đúng hơn Việt Nam thực hiện cải cách ruộng đất vào những năm 1950, chính quyền địa phương tịch thu đất của địa chủ, phú nông, phân phối đất đai cho nông dân nghèo. Trên lý thuyết "Cách mạng ruộng đất tạo ra những điều kiện giải phóng dân tộc". Thực hiện theo chủ nghĩa cộng sản có nghĩa là mọi người sẽ sử dụng phương tiện thiết lập lại xã hội công cộng, tuy nhiên xã hội đó không bao giờ đến với xã hội chủ nghĩa.
Mã số 7088665, ngày 17 tháng 7 năm 1934. Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh chọn quốc kỳ Việt Nam Dân Chù Cộng Hòa (1945-1976). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Tháng 11 năm 1953 có cuộc họp kỳ thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ra quyết định thực hiện phong trào cải cách ruộng đất. Theo các nhà chức trách Việt Nam, tiết lộ thông tin 1953-1957, ở vùng đồng bằng phía Bắc và gần khu vực bán sơn có 810.000 ha đất được giao cho hai triệu nông dân, chiếm 72,8% tỷ lệ đất canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1945, chỉ có 4% hộ gia đình sở hữu đất đai, chiếm 24,5% diện tích đất canh tác. Hồ Chí Minh phát biểu: "Chúng tôi có những quan điểm khác nhau về cải cách ruộng đất, nhưng căn cứ theo nghị quyết tạo lập sự công bình, hợp lý, không chỉ để làm cho lao động nông nghiệp, nông dân nghèo, nông dân trung bình thấp có đất canh tác, cũng chăm sóc địa chủ và phú nông".
Tuy nhiên, đứng ở một góc độ quan sát, phong trào cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam có một số tác động tiêu cực đáng kể. Hành động cường độ cực mạnh, phương thức thực hiện tàn bạo bởi vậy có hàng ngàn người bị tố cáo bị hành quyết, bỏ tù thành phần nông dân, "Bác" mới thực hiện đã sai công thức đấu tranh với giới địa chủ. Đến tháng 10 năm 1956 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (CPPCC tương tự của Trung Quốc) công bố rằng người dân đã mất niềm tin cải cách ruộng đất. Bản thân Ủy ban Trung ương (CPC) cũng thi hành công tác sai, và đổ lỗi lên đầu nông dân, khó tả tình trạng chuyên chế đảng "Bác", đảng lên án nông dân quá bi thảm, đảng giai cấp nông dân, giết người dân không nương tay, cực kỳ tàn bạo và man rợ.
Trong thực tế, các lĩnh vực cải cách ruộng đất vào năm 1956, có năm giai đoạn cải cách ruộng đất đã được bắt đầu từ năm 1950, Việt Cộng chiếm đóng vùng nông thôn, được gọi chung là vùng giải phóng Bắc Việt. Tuy nhiên, đến năm 1956 nổ ra tất cả mọi thứ sai lầm cải cách ruộng đất mãnh liệt nhất, thời kỳ này tàn bạo nhất, đảng lên án thực hiện hành quyết nông dân, phần lớn mọi người đã chết trong tù. Phía Bắc lây lan "khủng bố đỏ", bầu không khí ngột ngạt, tâm lý hoảng loạn, sợ hãi làm người ta khó quên.
Hồ Chí Minh hủy diệt dân tộc Việt Nam "trảm thảo trừ căn".
Nhà chức trách Hà Nội xuất bản "Việt Nam Kinh tế Lịch sử", tiết lộ rằng đã có 172.008 người giai cấp nông dân kẻ thù của chủ nhân dân, nông dân giàu có thuộc thành phần giai cấp của cải cách ruộng đất, những người này phải "trảm thảo trừ căn", đáng ra, đảng không nên thực hiện mở đầu cái chết tử hình hay tù đày nhân dân. Quá trình "hủy diệt" nhân dân trong câu chữ phổ biến "cải cách ruộng đất", dù từ ngữ nghĩa đen cũng mô tả các hành động cải cách ruộng đất tàn bạo.
Ngày 27 tháng 7 năm 1972, "New York Times" Hoa Kỳ loan tải cuộc họp báo của Tổng thống Richard Nixon cho biết số liệu, người chết trong cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam, có đến năm triệu người (5 triệu) đã bị giết chết và nửa triệu người chết trong các trại lao động. Tuy nhiên phóng viên Pháp - Victoria (Michel Tauriac) thực hiện phóng sự cải cách ruộng đất cho biết nửa triệu nạn nhân. Ông cho rằng con số này cũng hợp lý, nếu nạn nhân bao gồm những người bị tử hình, tù, thủ tiêu, có những người chết vì tự tử. Chúng ta chỉ có thể dự đoán, không có thông tin cụ thể chính thức để nghiên cứu khoa học và con số chính xác để tham khảo. Cũng trong năm 1956, Hồ Chí Minh công khai thừa nhận những sai lầm trong quá trình tiến hành thực hiện cải cách ruộng đất, cam kết sẽ sửa chữa và xử lý một số trường hợp. Trong thông báo chính thức có 172.008 nông dân, địa chủ giàu có trên 123.266 người, đang phân loại thành phần sai phạm. Tính theo tỷ lệ 71,66%. Cho tất cả mọi nơi tại miền Bắc, đảng hành động quá nhiều sai phạm mà không khắc phục cải cách, đưa đến bất công, người dân đau khổ, trầm luân quá nhiều.
Hồ Chí Minh quá dã man.
Ngày 25 tháng 2 1956 tạp chí (Nội San Cải Cách Ruộng Đất) loan tải vấn đề "cải cách ruộng đất", Hồ Chí Minh phát biểu: "Thực hiện hành quyết không phải hành vi man rợ", "Tuyệt đối thực hiện không thể bất thành, nếu việc hành quyết khả thi theo Đảng và chính sách xem ra không mâu thuẫn với phong cách trái ngược mang tính cách mạng".
Trong lúc thực hiện cải cách ruộng đất, xem địa chủ như kẻ thù của đảng. Trong quá khứ, "Bác" nói rằng địa chủ một thành phần của nhân dân. Nhưng sau đó quy tội địa chủ chống cách mạng, từ đó những địa chủ không bao giờ ngủ yên, vẫn nơm nớp sợ hãi, tương lai "Bác" hỏi ai là kẻ thù của nhân dân, nhân dân thấy "Bác" nói sao cũng được bởi "Bác" là đạn với súng, nông dân trở thành nạn nhân của đảng, gia đình của họ cũng bị ảnh hưởng theo chính sách của đảng, nhất định họ phải bị xã hội cô lập và cách ly. Không chỉ những người nông dân bị kết án khổ sai như những địa chủ khác. Ngay cả Bộ Chính trị ĐCSVN năm 1956 Báo cáo cũng đề cập đến các kế hoạch trong lĩnh vực thanh lọc cải cách ruộng đất, và khủng bố "tàn bạo" từ để mô tả một thời điểm cao trào cách mạng diễn ra trong hành động tại miền đất Việt Bắc.
Việt Minh dã man, lấy cày bừa qua đầu người thay cho án tử hình, một hành vi man rợ nhất thế kỷ XX (1954-1956) Như một trừng phạt răn đe vô nhân đạo không còn công lý, cho thấy chế độ bạo lực sẽ nhân danh sự thoải mái, người đầu tiên của công cụ "cải cách ruộng đất" là nông dân Việt Bắc. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất là những gì đã xảy ra cách đây 62 năm, nhưng đối với những người trực tiếp chứng kiến nạn nhân, vết thương của họ vẫn còn chịu ảnh hưởng của lửa đấu tố. Thật không may, cho đến bây giờ phải mô tả Cộng sản quá cuồng tín. Phong trào cải cách ruộng đất ở Việt Nam vẫn còn lệnh cấm không được đụng đến "nhạy cảm", tuy có thảo luận nhưng bị hướng dẫn một chiều, nhân chứng đã trở nên ngày càng thưa dần. Đây là một điều đáng suy nghĩ cho vấn đề hồ sơ lịch sử.
Vào những năm 1949, có hai điều quan trọng xảy ra. Việc đầu tiên là vào năm 1949 sau khi Hiệp định Ellis (Hiệp định Elysée), sự xuất hiện Bảo Đại thành lập chính phủ. Sau khi chế độ Bảo Đại được thành lập để đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân, nhiều người từ khu vực chiến tranh trở về thành phố để sống. Việt Minh bị mất nguồn nhân lực, nhất là giới trẻ, cần họ tham gia vào các lực lượng chiến đấu. Vì vậy. Kết quả năm 1949 là một bước ngoặc lớn trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương, kể từ cuộc chiến 1946-1949, người dân từ khu vực này đến khu vực khác chuyển đổi cuộc sống hoặc rời khỏi nông thôn về thành phố rất nhiều đất đai bỏ trống không còn bao nhiêu người dân ở lại với Việt Minh. Vì vậy, Việt Minh cần thiết giải quyết hai vấn đề: Thứ nhất thiếu nhân lực sản xuất lương thực, thứ hai thiếu binh sĩ chiến đấu và nguồn cung cấp thực phẩm, do đó Việt Minh hối hả mở rộng cuộc cách mạng cải cách ruộng đất.
Phong trào cải cách ruộng đất đã có nghị quyết từ năm 1949 đến giữa năm 1956 kết thúc, trong đó có thể được chia thành năm giai đoạn. Năm giai đoạn của chế độ Việt Minh được ban hành bởi những bộ phận khác nhau của đất cải cách:
- Giai đoạn một, kể từ năm 1949, chính phủ Việt Minh khuyến khích nông dân gia tăng sản lượng nông nghiệp và thành lập Ủy ban giảm thuế. Việt Minh yêu cầu địa chủ sở hữu xới đất lao động nông nghiệp (xới đất tức là thuê) thống nhất giảm thuế. Thậm chí một số nơi giảm thuế 35%. Đến năm 1949, Việt Minh ban hành sắc lệnh thuế, đưa ra một số nguyên tắc quan trọng, chẳng hạn Việt Minh thu đất của người Pháp và địa chủ người Việt phân phối cho nông dân, người Việt Nam gọi là "đảng bá chủ đất đai". Nguy hiểm hơn cho tất cả nông dân đã từng hợp tác với người Pháp, hoặc không hợp tác với Việt Minh.
Hành quyết nông dân đã từng hợp tác với người Pháp, hoặc không hợp tác với Việt Minh. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
- Giai đoạn hai, ngày 12 tháng 2 năm 1950, Việt Minh đã ban hành một sắc lệnh tổng động viên, kêu gọi người dân vì đất nước quê hương cho con người nhập ngũ, cống hiến vật chất (tức là công cụ nuôi miệng ăn) và tài chính (tiền). Năm 1950, Hồ Chí Minh ban hành hai sắc lệnh. Công bố cam kết hoàn trả đất đai, trước đó năm 1945 đã có hợp đồng hoàn trả tất cả các khoản nợ 100% giữa nông dân lao động và người lao động nông nghiệp, đảng cho rằng không hợp lệ. Đó là sử dụng lao động vì lợi ích cho Việt minh tại thời điểm này. Trong sắc lệnh thứ hai, nó cũng là năm thứ năm liên tiếp sửa chữa tuyển dụng đất đai (đất trống), do Nhà nước phân phát đất cho nông dân. Tuy nhiên, những điều quan trọng đã xảy ra vào năm 1950, đó là sau khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh kêu gọi Mao Trạch Đông cho ông đạt hai điều: Một là mở rộng đổi tên Đảng Lao Động thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thứ hai là thúc đẩy thực hiện những phong trào cải cách ruộng đất theo đường hướng Trung C ộng. Để đạt được quyền phân phát đất đai, chuẩn bị cách mạng cải cách, theo đường hướng Cộng sản Mao Trạch Đông bắt đầu luyện tập và củng cố tập đoàn Việt Minh. Cũng thời gian này Hồ Chí Minh đã đến thăm Liên Xô, giai đoạn thứ ba bắt đầu. Ở giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã gửi một phái đoàn đến Bắc Kinh để học tiếng Trung Hoa và đào tạo lý thuyết Mác-Lênin. Việt Minh thực sự học tập cải cách ruộng đất, cách vận hành đường hướng Cộng sản. Sau khi học tập họ trở về miền Bắc được gửi đi công tác với nhóm Cố vấn Trung C ộng, đặc biệt có nhóm đi miền Trung. Ngoài ra có nhóm gửi vào phía miền Nam, nhưng chỉ ở một số vùng núi xa xôi, vùng đồng bằng không có dấu chân cải cách ruộng đất của Việt Minh.
- Giai đoạn ba, ngày 20 tháng 4 năm 1953 vấn đề tha thứ nông dân và sự khởi đầu. Chỉ dụ này công bố việc tịch thu đồn điền của người Pháp, Việt Minh đã có những tội ác, bắt nạt tất cả nông dân có tài sản và đất đai. Kể từ đó, họ cũng đã thành lập một tổ chức gọi là Ủy ban Nông nghiệp ở tất cả các cấp từ thành phố đến nông thôn. Ủy ban Nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ phụ trách được xem như một trung tâm của cộng đồng (quy mô tương tự thành phố, cấp huyện, thị trấn, làng xã của Trung Qu ốc). Và kể từ thời điểm đó khởi đầu chỉ trích cảnh cáo nông dân. Việt Minh đang bận rộn với công việc đàm phán Genève, do đó tiến hành lên án chưa quyết liệt, như vậy là không khơi dậy dư luận quốc tế chỉ trích.
Trung Quốc là một cơn ác mộng của Việt Nam? Các phái đòan đến Hội nghị Genève (Genève, Switzerland, 1954). Nguồn/Photo: Time Inc./Frank Scherschel.
- Giai đoạn bốn, năm 1954, Ủy ban Tư pháp quy định nếu nhân dân chống lại phong trào cải cách ruộng đất được xem phản động. Ở giai đoạn này kể từ khi ký kết Hiệp định Genève, mặc dù Ủy ban tư pháp gọi là "nhân dân" nhưng thực chất nhân dân không có quyền, cảm giác của nhân dân cực kỳ nghiêm trọng về an ninh, giống như những lời chỉ trích có hành vi khủng bố của Việt Minh.
- Giai đoạn năm, ngày 14 tháng 6 năm 1955, Hồ Chí Minh vận dụng phong trào cải cách ruộng tạo ra sắc lệnh ân xá một phần nào dựa nội dung hướng dẫn Trung C ộng để thực hiện trên cơ sở năm 1953, đồng thời Việt Minh cũng đã thành lập một Ủy ban cải cách ruộng đất do Trường Chinh đứng đầu và thành lập những cơ sở đoàn đội, sau đó thành lập các Ủy ban tư pháp nhân dân. Giai đoạn này Việt Minh bắc nông dân đấu tố lẫn nhau. Ủy ban tư pháp nhân dân trở thành công cụ của cán bộ nông thôn. Tranh luận nguồn gốc nông thôn trong quá khứ của mỗi thành phần để làm công cụ loại bỏ tất cả xã hội cũ.
Tất cả những bi kịch trong giai đoạn năm. Nhưng tại sao phong trào cải cách ruộng đất dừng lại năm 1956? Có phải họ đạt được mục tiêu của mình và chịu buông bỏ nó? Hoặc vì quá nhiều khiếu nại, phê bình, quá nhiều bất công xảy ra và ngăn chặn nó? Những câu hỏi rất thú vị. Đa số người dân Việt Nam có một góc nhìn bình thường, sau đó nhìn thấy rõ ràng rằng việc thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản Việt Nam quá nghiệt ngã. Nhưng vì một số các quan điểm nội tại thấy lợi ích của các nhà lãnh đạo cấp cao trong Đảng Cộng sản, do đó Việt Minh không nhìn thấy bất kỳ sai trái nào. Chỉ có những chuyên môn nông nghiệp, thấy cải cách ruộng đất này sẽ không đẩy sự phát triển của nông nghiệp, cũng không cải thiện cuộc sống của người nông dân, mà còn nghiêm trọng làm suy yếu nền tảng của nông nghiệp truyền thống ở nông thôn miền Bắc, tình hình của người dân trở nên đói nghèo trầm trọng.
Hồ Chí Minh thăm bà con nông thôn các dân tộc tỉnh Tuyên Quang và khuyến khích trong phong trào cải cách ruộng đất đấu tố nông dân 1945. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Đứng trên quan điểm của Đảng Cộng sản, họ tuyên bố chiến thắng cải cách ruộng đất. Năm 1956, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cũng đến lúc cần thiết ngăn chặn việc thực hiện cải cách ruộng đất, gồm hai phần: cải cách ruộng đất cách mạng là một vấn đề nội bộ của Bắc Việt Nam, khi ấy cải cách ruộng đất đã đạt mục đích chính trị của mình. Là gì? Mục đích chính trị của nó là sự phá hủy cơ sở lãnh đạo hạ tầng khu vực nông thôn, lãnh đạo thay vì được thành lập bởi một nhóm cộng sản. Thứ hai là họ ngăn chặn "những yếu tố thù địch tàng ẩn trong nhân dân", Việt Minh đã phá vỡ đổ nát khu vực nông thôn và văn hóa truyền thống, Việt Minh thay vào đó tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, Đảng Cộng sản hành động khủng bố nông dân trong giai đoạn năm, để chế ngự nông dân thực hiện, bằng phương thức buộc bao tử nhân dân, thiếu ăn và nghèo đói luôn luôn sống trong nỗi sợ hãi vô tận, để nông dân tiếp nhận cán bộ cộng sản, cộng đồng nông thôn miền Bắc là nền tảng cho việc củng cố sự ổn định đảng. Tuy nhiên, nếu hành vi của Việt Minh cực đoan quá căng thẳng, lòng nhân dân sẽ đỏ lửa, bởi nông dân bị đẩy đến đường cùng, vì vậy nông dân phải chống lại Việt Minh, như đã xảy ra cuộc nổi dậy của nông dân chống đảng vào năm 1956 tại tỉnh Nghệ An và huyện Quỳnh Lưu Hà Tỉnh, sau đó Hồ Chí Minh huy động quân đội đàn áp thô bạo.
Việt Cộng đã đạt được mục tiêu của mình: Tiêu diệt nhân dân "theo tội phản động" và phá hủy hoàn toàn môi trường xã hội truyền thống nông thôn Việt Nam. Việt Minh phát động nông nghiệp tại nông thôn vào hợp tác xã, nông dân trở thành công cụ sản xuất hoàn chỉnh của đảng, bắc buộc nông dân tự quản lý đất và sản xuất ngũ cốc, nông dân phải thực thi thống nhất dưới sự chỉ huy của chính sách nông nghiệp. Sau khi chính sách vào hoạt động được xem đã củng cố chế độ, Việt Cộng chấm dứt phong trào cải cách ruộng đất, mũi nhọn của sự chỉ đạo ổn định chính trị do cố vấn Trung Cộng phụ trách.
Đầu tiên vấn đề nội bộ đảng miền Bắc Việt Nam, thứ hai là nước ngoài (Trung Cộng) tham gia vào cải cách ruộng đất. Phân tích yếu tố thứ hai, chúng ta cần đặt lại tình hình Việt Nam bộ phận chính trị Cộng sản quan sát bởi bối cảnh quốc tế. Vào thời điểm đó cái chết của Stalin lãnh đạo độc tài của Liên Xô năm 1953. Các cuộc đấu tranh quyền lực dữ dội trong đảng, Khrushchev giành chiến thắng quyền lực. Đại hội Đảng lần thứ 20 tại Moscow, Khrushchev đọc báo cáo khiếu nại Stalin tàn bạo và thờ phượng chủ nghĩa cá nhân. Báo cáo đưa ra một cú sốc cho toàn thế giới. Sau khi Khrushchev thực hiện chính sách tự do hơn để thúc đẩy chung sống hòa bình giữa các quốc gia có hệ thống chính trị cộng sản khác nhau, và hứa sẽ mang lại cho Liên Xô, con đường dân chủ. Khrushchev củng cố quyền lực của mình sau khi cử đại diện đi giải thích các nước trong khối cộng sản. Tháng 4 năm 1956, Mikoyan có chuyến viếng thăm Hà Nội, giải thích chính sách Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần hai mươi cho đồng chí Việt Nam hiểu biết và nắm bắt tình hình chung. Vì vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô và Việt Nam không thể đi theo con đường ngược lại, do đó, giá trị của tháng 7 năm 1956, được tóm tắt qua giai đoạn năm của hội nghị cải cách ruộng đất, áp lực trong nước và quốc tế lên Hồ Chí Minh để chấm dứt phong trào cải cách ruộng đất, và bắt đầu thực hiện những thay đổi chính sách. Hồ đổ lỗi điều hành sai trái bởi những người gần gũi với mình. Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt (Huang Yue), Lê Văn Lương (Li Wenliang), sau này họ từ chức, nhưng một thời gian những người này trở lại lãnh đạo chính phủ, tiếp tục phục vụ như là một bài học. Những thiệt hại cá nhân trong trường hợp cải cách ruộng đất, nhưng đây chỉ là những hành vi mang tính biểu tượng duy nhất.
Theo Cố vấn tướng Trần Canh, nhớ lại phong trào cải cách ruộng đất chỉ được chính thức bắt đầu khởi động vào năm 1950 và kết thúc giữa năm 1956. Trong bão tố ấy, cực kỳ khắc nghiệt, đảng Cộng sản đã tạo ra cách mạng khủng bố quá tàn bạo, tàn ác đối với nhân dân miền Bắc, vô số nông dân địa chủ bị giết chết, vì vậy các nạn nhân và gia đình của họ nỗi sợ hãi vẫn dai dẳng, không bao giờ quên, cơn bão này là nguồn gốc đau khổ. Theo các báo cáo, vào năm 1950, Hồ Chí Minh từ miền giải phóng Việt Bắc, bí mật viếng thăm Moscow Liên Xô, Stalin và Mao Trạch Đông không quan tâm Đảng Cộng sản Việt đang chỉnh lưu (có nghĩa là không chú ý đến sự chống hữu khuynh), và Việt Cộng hướng dẫn thực hiện việc chống hữu khuynh, "đào tạo lực lượng nông dân cách mạng", hành động cụ thể là thực hiện phong trào cải cách ruộng đất ở các vùng giải phóng.
Sau khi Hồ Chí Minh trở về, Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản (sau này là Bộ Chính trị) bí mật thực hiện cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị trong vòng hai năm. Cách hoạt động bao gồm trong hệ tư tưởng, đường dây chính sách và các khía cạnh tổ chức. Tùy theo sự xúi giục của Mao Trạch Đông và Stalin. Trung Qu ốc sẽ giúp Việt Cộng cải cách ruộng đất. Vì vậy, Hồ Chí Minh mời chuyên gia Cố vấn Trung Qu ốc. Đại sứ Trung C ộng La Quý Ba (Luo Guibo) được Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm người đứng đầu Cố Vấn và các ông Vi Qu ốc Thanh đứng đầu Cố vấn quân sự, Kiều Hiểu Quang (Qiao Xiaoguang) tỉnh Quảng Tây làm phó bí thư Cố vấn nhóm cải cách ruộng đất, ngoài ra, cán bộ Việt Cộng được đào tạo và hợp nhất hành động thay cũ đổi mới (tức là từ ngữ Trung Qu ốc "chỉnh phong", Cố vấn an ninh công cộng, Cố vấn tổ chức và chuyên gia Cố vấn vv...... tất cả cán bộ chính trị, quân sự, đảng viên được những Cố vấn huấn luyện quân sự và tư tưởng.
Năm 1952 theo nghị quyết "phong trào cải cách", CPVM và Trung ương Đảng đề cao thực hiện chiến dịch "đào tạo và củng cố toàn bộ trong quân đội". Về mặt tổ chức cải cách ruộng đất Việt Cộng thành lập Ủy ban Trung ương bởi Trường Chinh làm Giám đốc và Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt Phó giám đốc, Hồ Viết Thắng (Hu Yuesheng) Ủy ban Thường vụ. Ủy ban được thành lập trước khi khởi động cải cách ruộng đất. Việt Cộng tổ chức đội ngũ đối phó với nông dân và kẻ thù giai cấp, chiến dịch này tấn công dữ dội vào nông dân! Đảng Cộng sản khởi động phong trào cải cách ruộng đất được gọi là "Một oanh thiên di chuyển đến cách mạng", thực hiện "cuộc vận động quần chúng hoàn toàn" [2], có nghĩa là hành trình cải cách ruộng đất mạnh mẽ, không tuyệt vọng, không đội trời chung với nông dân, ngay cả khi hành động nó đã quá cực đoan trái công lý và không có thời điểm dừng lại.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng "Đảng Cộng sản là một đảng cách mạng, do đó tham gia vào cuộc cải cách ruộng đất phải có "tinh thần cách mạng", tất nhiên phải là "Một oanh thiên di chuyển đến cách mạng"! Cáo buộc một số quốc gia "cải cách ruộng đất" tiếp cận hòa bình là cải lương, chủ nghĩa tư bản là phản cách mạng, địa chủ phản động, các cấp cán bộ phục vụ vì đảng không dơ bẩn không có đất canh tác". Hồ Chí Minh kêu gọi đảng "mạnh dạn vận động quần chúng", ông đã làm một ví dụ quái gở: "Khi tre nhận được một thẳng cong, sinh mạng bạn ở đó và tay phản lại kéo dài nó ra, sau đó đứng thẳng trước mọi người, sai khiến chúng nó đi theo đảng". Hồ Chí Minh có vẻ hài lòng giải thích điều đó, nhưng ông đã không nhận ra rằng "nhanh chóng uốn cong hơn một chút" sẽ có một thảm họa! Vì vậy, mỗi đội cải cách ruộng đất hoạt động trong khu vực nông thôn nhất định. Việt Minh nắm trên tay quyền lực không giới hạn, bao gồm cả việc giết hại quyền sống con người. Việt Minh phổ biến câu nói: "Đội cải cách ruộng đất đầu tiên/một lão thiên quyền vô hạn", cán bộ thực hiện cải cách ruộng đất cùng nhau tự hào chiến thắng! Vào thời điểm đó, có một thiếu tướng Vương Th ừa Vũ (Wang Chengwu), sư đoàn trưởng 308 đầu tiên và chính trị viên, ông làm Ch ủ tịch của Ủy ban kiểm soát quân sự Hà Nội, ông trở về thăm thân nhân tại nông thôn ở ngoại ô Hà Nội, ông bị đội cải cách ruộng đất bắt giữ, cùng với chiếc xe và người vệ sĩ. Trước khi thích phóng cấp thành ủy Hà Nội biết sự thật có những phi lý!
Năm 1952 Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN lựa chọn huyện Ðại Từ tỉnh Thái Nguyên làm thí điểm cải cách ruộng đất, nhưng đã xảy ra một sự kiện đáng ngạc nhiên: Uỷ ban Tư pháp cải cách đất đưa bà Nguyễn Thị Năm ra pháp trường bắn chết. Loại bà ra khỏi quyền lực cách mạng. Tuy bà là Chủ tịch hội phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, tích cực tham gia vào những hoạt động phụ nữ và "Tuần lễ vàng" bà đã dâng hiến cho Việt Minh một trăm hai mươi lạng vàng. Con trai của bà gia nhập quân đội chống Pháp, quân hàm Đại tá, trong hàng ngũ Việt Cộng có quá nhiều những kẻ bắt nạt nhân dân. Sau khi, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét trường hợp của bà Năm, Ban Chấp hành Trung ương chấp thuận thực hiện đội cải cách ruộng đất! Đưa bà Năm vào danh sách địa chủ cần tử hình.
Những âm thanh của tiếng súng đầu tiên, nhằm vào địa chủ nhằm thực hiện cải cách ruộng đất. Cộng Sản bắn một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cách mạng! Cho thấy tâm lý của những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản quá tồi tệ! Nó dự báo thảm họa dân tộc Việt Nam đang trên đà phá sản đạo đức!
Năm 1953 phong trào cải cách chính thức khởi động. Đảng đã sẵn sàng ban hành một loạt những chính sách để "hợp pháp hóa" chế độ, và những nghị quyết của chính phủ quy định, theo thông báo chuyển đến các phòng ban khác nhau cùng hành động. Theo số liệu của Việt Cộng, báo cáo phong trào cải cách ruộng đất, tiến bộ đầy máu chứa trong nhiều số hồ sơ:
- Cuối tháng Giêng năm 1953, độ phân giải Uỷ ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về các chính sách cải cách ruộng đất xem lại các dự thảo tịch thu đất của địa chủ. Tại cuộc họp Hồ Chí Minh, đề nghị triệt để thực hiện phong trào cải cách ruộng đất.
- Vào đầu tháng 3 năm 1953, chính phủ đã triệu tập một cuộc họp để thảo luận về các mục tiêu và nguyên tắc cải cách ruộng đất, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói về kế hoạch vận động quần chúng. Cuộc họp thông qua các chính sách cải cách ruộng đất và vận động quần chúng thành lập những tập thể chung sống chung làm việc, đó là chính sách của đảng "hợp pháp hóa" quyền đảng tung hoành không ai cản trở.
- Ngày 01 tháng 3 năm 1953 đến ngày 05, Nhật báo "Nhân Dân" loan tin Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương Lê Văn Lương (Li Wenliang) Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp việc đào tạo và biên tập những bài báo của tổ chức cải cách ruộng đất. Trong khi đó vào ngày 16 tháng 3 1953, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã ban hành đến các cấp để vận động quần chúng và đào tạo, theo khuôn mẫu duy nhất. Đảng hiện đại hóa đào tạo cán bộ và củng cố thế lực đã có dấu hiệu kết quả "không phụ thuộc vào công thức đình công, trừ bỏ cấu trúc xã hội cũ nông thôn, xây dựng một tổ chức mới" theo tinh thần cách mạng.
- Ngày 12 tháng 4 năm 1953, Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã ban hành một nghị định: Quy định 1/ Chính sách cải cách ruộng đất, bao gồm tịch thu, sung công; 2/ UBND thiết lập hệ thống vận động quần chúng đẩy mạnh cải cách ruộng đất; 3/ thực hiện quy định nơi cải cách ruộng đất, vận động quần chúng chống lại hàng loạt địa chủ.
- Ngày 01 tháng 6 năm 1953, Nhật báo "Nhân Dân" công bố cuộc hành quân dài về cải cách ruộng đất.
- Tháng 6 năm 1953, các công nhân, đảng viên và cán bộ nâng cao vị thế đẳng cấp phát động phong trào và được gọi là chiến dịch "huấn luyện chính trị và củng cố".
- Ngày 14 tháng 11 năm 1953, cuộc họp thứ năm của hội nghị toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam đã được tổ chức để công bố độ phân giải ruộng đất. Tại cuộc họp Hồ Chí Minh, tuyên bố khẩu hiệu "chúng ta hãy đi vận động quần chúng, thực hiện phong trào cải cách ruộng đất". [4]
- Ngày 01 tháng 12 năm 1953 đến ngày 4, Quốc hội đã tổ chức bốn cuộc họp trong lần thứ ba, Hồ Chí Minh đọc báo cáo "Tình hình hiện nay với phong trào cải cách ruộng đất" [5]. Ngày 04 tháng 12, Đại hội đã thông qua luật cải cách ruộng đất. Sau đó, nghị định được thông qua bởi Quốc hội Hồ Chí Minh ban hành. Kể từ đó, Hồ bắt đầu chuyển động giai đoạn hai và những giai đoạn khác về cải cách ruộng đất, giai đoạn đầu tiên chọn sáu cộng đồng trên địa bàn tâm điểm tỉnh Thái Nguyên - Thanh Hóa, mỗi đoàn bốn mươi bảy (47) người. Sau đó, công tác thêm các vùng núi, tất cả các tỉnh miền Bắc khởi động đấu tố. Một sự cố tại huyện Lưu Huỳnh (Quỳnh Lưu) Phát Diệm nông dân tức giận công khai chống lại, Ủy ban Trung ương (CPC) trong những vùng núi chỉ được thay thế bằng chiến dịch "cải cách dân chủ". Tạm sử dụng bạo lực, để loại bỏ phong kiến địa phương (gọi là thổ hào), vì sợ người dân chống lại và chạy sang Trung Quốc, Lào....... Như tại huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, vì gần biên giới với Việt Nam Cộng Hòa cũng đã từng là trung tâm "chính sách" cải cách ruộng đất không thích hợp cho miền Nam Việt Nam, cho nên bạo lực địa chủ không tác động xấu.
Từ năm 1951 đến năm 1952, Việt Minh đã chuẩn bị học tập, bao gồm tất cả khía cạnh công tác, đầu tiên thống nhất suy nghĩ trong đảng và quân đội duy nhất bảo vệ đảng. Được gọi là "đào tạo và hợp nhất", "toàn bộ quân đội". Nếu công tác chung với Cố vấn, sau đó cán bộ phải trải qua giải thích với đảng "Bác", việc mở cửa tư tưởng phải phù hợp với đảng. Những đội cải cách ruộng đất, khoảng bốn mươi nhóm quân nhân chịu trách nhiệm công tác của đội cải cách ruộng đất, không được tiếp nhận đề nghị của người dân địa phương. Vì sợ rằng người dân sẽ nói "thương xót" địa chủ.
Những đối tượng nông dân nghèo, lao động nông nghiệp đồng tham gia thực hiện cải cách ruộng đất do đội "tam cộng", tổ chức thành sinh hoạt ăn uống, ngủ một tổng, tổng số lao động. Họ xúi giục nông dân khiếu nại, vạch trần địa chủ, vận dụng hận thù địa chủ. Sau đó kích động những người khác tham gia. Nó được gọi là « Trong vùng lân cận của ba phương pháp tiếp cận ». Họ ghi lại dữ liệu của dân, chia rẽ dân đối đầu với địa chủ, phú nông, nông dân nghèo, nông dân trung lưu và các thành phần khác. Đội cải cách ruộng đất chủ động bạo hành, thường bao quanh ngôi nhà của địa chủ. Để chuẩn bị tịch thu tài sản. Đảng được quyền đào xới quanh nhà địa chủ, tìm kiếm vàng và tiền bạc. Ngay cả áo quần cũng lục soát và tìm kiếm tài sản của khổ chủ.
Hồ Chí Minh xúi giục con tố cha hay mẹ, vợ tố chồng, anh em tố lẫn nhau, bà con nội ngoại tố không bỏ sót một ai. Sử dụng ngôn ngữ xấu hổ chỉ vào mặt nạn nhân. Sử dụng thù hận và tham lam của trái tim mọi người, đảng hứa sẽ chia nhiều đất hoặc tài sản cho những ai đấu tố thành công. Trước những lời chỉ trích, làm thế nào để địa chủ phải quỳ xuống nhận tội, làm thế nào để hô khẩu hiệu theo đảng hướng dẫn trước. Tổng kết chỉ trích sau hai hoặc ba ngày để thực hiện gợi ý "Bác" đảng và gợi ý của Cố vấn Trung Qu ốc cho phép đấu tố đổi trắng thay đen, đảng đã có kế hoạch nếu cần thiết sửa chữa 5% tỷ lệ địa chủ và phú nông vào chiến dịch chính trị. Một lĩnh vực khác đảng dàn dựng những cuộc đấu tố cho đến khi nào thấy địa chủ nhận thảm họa vào thân.
Tháng 9 năm 1956, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ X, chiếu theo nghị quyết đại hội 9 thi hành cải cách ruộng đất cần hoàn chỉnh. Từ Hội nghị này cán bộ tương đối bất mãn và ảnh hưởng áp lực, Ủy ban Trung ương CPC buộc nhận tội sai lầm nghiêm trọng trong các phong trào và đồng ý để sửa chữa sai sót. Những trung tâm thực hiện hình phạt kỷ luật: Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí thư, lưu giữ thành viên Bộ Chính trị; Hoàng Quốc Việt và Lý Văn Lương đuổi ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng (Hu Yuesheng) cũng bị khai trừ khỏi Trung ương. Lê Du ẩn được bầu vào Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương, còn Hồ Chí Minh chạy tội.
Ngày 29 tháng 10 năm 1956, tổ chức một cuộc mít tinh tại phía trước Quảng trường Nhà hát nhân dân Hà Nội, thành viên Bộ Chính trị tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức công nhận những sai phạm của phong trào cải cách ruộng đất. Hai nhà lãnh đạo hàng đầu Hồ Chí Minh, Trường Chinh chịu trách nhiệm lớn nhất đối với nhân dân. Tuy nhiên Hồ Chí Minh, Trường Chinh vắng mặt. Võ Nguyên Giáp cho biết "tại sân vận động Hàng Ðẫy Bác nói lắp bấp đôi điều và khóc ở nơi công cộng, cuộc mít tinh tổ chức bởi thành ủy Hà Nội". Việt Cộng cha đẻ nói dối, trên thực tế Hồ Chí Minh chưa hề có mặt tại cuộc mít tin sân vận động Hàng Đẫy. Võ Nguyên Giáp tự dựng chuyện tuyên bố láo bố lếu, thế nhưng lại được lưu hành trong lịch sử đảng. Võ Nguyên Giáp còn cho biết "tại thời điểm này "Bác Hồ không thuận tiện đến đây". Những người hiểu biết, Hồ đã không có mặt làm gì có những giọt nước mắt như thế được, nước mắt của Hồ Chí Minh không bao giờ xảy ra tại đây, cho nên Võ Nguyên Giáp xuất hiện để chịu tội thay thế cho Hồ. Cộng thêm một cuộc gian dối của Hồ!
"Hồ Chí Minh tự khóc dối, lấy nước mắt giả mạo sửa sai" một bản kịch quá tuyệt vời, loan tải trên báo nội san "Cách mạng ruộng đất". Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Đảng không thừa nhận sai lầm chỉ thay đổi chính sách.
Tháng 7 năm 1956, Đảng Bộ Chính trị, Ủy ban Trung ương và Ban Thư ký v.v...đã tổ chức nhiều cuộc họp thảo luận về những sai phạm trong cải cách ruộng đất và thực hiện thay đổi chính sách. Cuộc họp quan trọng nhất là Hội nghị Trung ương thứ mười trong tháng Chín. Đây là cuộc họp đầu tiên và lâu nhất, nó đã chia hai lần họp và trì hoãn cho đến cuối tháng mười một. Cựu Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam Hoàng Văn Hoan, ông đã từng có mười năm (10) làm đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, và sau đó đào thoát khỏi Việt Nam trong thập niên tám mươi (80), ông tìm kiếm nơi trú ẩn, xin ĐCSTQ tỵ nạn chính trị, ông cho biết. "Nếu Hồ Chí Minh có khóc đó chỉ là nước mắt thả trong đại dương" và "Giọt nước trong biển cả", (hồi ký Hoàng Văn Hoan) [6] có nói về cuộc họp tháng 7. Hoan lặp đi lặp lại nói về cuộc họp rõ ràng lỗi lầm thực hiện cải cách ruộng đất. Ông viết: "Trường Chinh chịu trách nhiệm về công việc của Ủy ban Cải cách ruộng đất, mặc dù rất khó để bác bỏ, nhưng (Chinh) vẫn phấn đấu để xem xét cải cách ruộng đất ở nông thôn và xem là một thắng lợi lớn, cố gắng tránh nói về những sai lầm, Hồ không thẳng thắn thừa nhận những sai lầm. Hoàng Quốc Việt đã không thừa nhận lỗi. Chỉ có Vụ trưởng Vụ Tổ chức Trung ương CPC Lê Văn Lương (Li Wenliang) thừa nhận sai lầm trong việc tổ chức chỉnh đốn đảng......", cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng chưa thực hiện một báo cáo về cải cách ruộng đất, một bài học được phân giải, nhưng Trường Chinh Tổng Bí thư và Chủ tịch Ủy ban "Cải cách ruộng đất" có tư duy luân lý riêng luôn luôn phản bội dân tộc Việt Nam, vì vậy có vài lần dự thảo nghị quyết, quan điểm không được Hội nghị Trung ương phổ biến.
Bốn năm sau, Việt Cộng Đại hội lần thứ ba tổ chức vào năm 1960, độ phân giải cũng không thể viết ra được, nhưng sau đó lại không có ai đề cập đến nó vì sợ hãi đảng. Đây không phải là lần đầu tiên giải quyết đã được thông qua tại cuộc họp trung tâm hội nghị quan trọng. Hoàng Văn Hoan cho biết thêm rằng "các lỗi trong quá trình sửa đổi, thái độ của Trường Chinh luôn luôn là không rõ ràng". Như vậy, chúng ta có thể làm một giải thích, mặc dù bị giáng chức đối với biện pháp kỷ luật, nhưng có vẻ như Trường Chinh không tin rằng cuộc tuần hành được tổ chức một cách gián tiếp đấu tố người chịu trách nhiệm thay mặt cho "Bác" đảng và những lãnh đạo khác.
Một trò chơi đầy máu và nước mắt của "Bác" thể hiện qua cải cách ruộng đất quá tàn ác và bất công, cuối cùng cải cách ruộng đất buộc phải dừng lại. Theo thống kê, đảng đã tiến hành tổng cộng tám khu toàn miền Bắc, chia thành năm giai đoạn cải cách ruộng đất đã có 3563 nhóm đội thực hiện phong trào quần chúng cải cách ruộng đất.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (2009) nói vấn đề để sửa đổi các chính sách và thực hiện cải cách ruộng đất như sau: "Sửa đổi chính sách địa chủ không được phục hồi, nhưng đối với đảng viên có công trạng chống Pháp càng làm những điều sai trái lớn hơn, càng có nhiều đảng viên hiếp dâm dân làng...... chứng minh, người dân sợ hãi không đề cập đến những tồi bại của họ. Trong thực tế, những người đã được phân loại là thành phần địa chủ đã từ lâu họ đưa vào nhà tù chung thân. Nhiều, rất nhiều người dân bị hành quyết ngay tại chỗ, đó là nơi tôi đã bị tù, và sau đó tôi trở về nhà, đã nhận thức được điều đó và không ai dám phán đối tội của "Bác" đảng. Rằng ở quê tôi, hai anh em H ồ Tính (Hu Xing) đã được liệt kê vào địa chủ, nhưng họ không giàu có, họ cũng đã bị đặt trước cải cách ruộng đất về tội phản động. Phó Chủ tịch Việt Minh tích cực đưa nông dân vào tù. Có một người tự tử, hai người kia đang ở trong tù. Tất cả đã chết trong tù, làng tôi được đặt dưới gộng kềm và nhà tù mà không có một người phản đối, sau đó không ai trở về nhà (mất tích). Cho đến năm 1961, khi tôi bị kết án tù, tôi đã gặp rất nhiều người đã được phân loại như các địa chủ vẫn còn sống trong tù. Lần thứ hai tôi bị kết án từ năm 1966-1977, tôi vẫn nhìn thấy những người địa chủ còn trong tù, mặc dù nhiều người chết".
Cuối năm 1947 và đầu năm 1948, ĐCSTQ tiến hành triệt để cải cách ruộng đất ở vùng Đông Bắc và khu vực phía Bắc rộng lớn, việc thực hiện một số chính sách cùng cực và khắc nghiệt nhất có nghĩa là không chỉ tịch thu đất đai của địa chủ, và tài sản nông dân nhiều đất, thanh lý khu vực nông thôn không theo Cộng sản và nghi ngờ điạ bàn phản động. Cho đến giữa năm 1948, cải cách ruộng đất được thực hiện ở các khu vực khác nhau, chuyển sang cấm nhân dân di chuyển, giảm bớt đi lại của nhân dân, cho đến vài năm sau đó Trung C ộng mới thực hiện được cải cách ruộng đất và thành công. Trung C ộng cho rằng ngày nay nhân dân tiếp cận "thoải mái hơn" thực tế chỉ tương đối bởi trước mắt đã có hàng trăm ngàn địa chủ bị xử tử. Ở Việt Nam, Việt Cộng thực hiện chính sách của mặt trận thống nhất gọi là đoàn kết, vẫn chưa kết thúc đấu tranh giai cấp.
Dựa trên một số lượng lớn các thông tin đáng tin cậy đã tiết lộ cải cách ruộng đất tại Việt Nam, Việt Cộng đang ảnh hưởng nghiêm trọng về kỹ thuật đấu tố của Trung Cộng, cán bộ đảng cùng với Cố vấn Trung Cộng tích cực tham gia thực hiện cải cách ruộng đất, Việt Nam làm cuộc cách mạng tương tự như Trung Cộng, họ cũng nhận ra chính sách cải cách ruộng đất không thực tiễn nhưng hoàn toàn đúng trong suy luận của Trung Cộng cho nên đã truyền vào Việt Nam vì họ đồng đảng.
Trong thời gian, cải cách ruộng đất tại Trung Qu ốc, tiếp theo được thực hiện ở Việt Nam, chính Trung C ộng đã sai phạm nghiêm trọng chính sách, tại sao Hồ Chí Minh lại tự nhận mình là "em trai" của Trung C ộng để rồi thiết lập chính sách cải cách ruộng đất khắc nghiệt lên đầu Việt Nam? Câu hỏi này rất nhiều bối rối cho các nhà điều tra. Lời giải thích duy nhất là chính sách cải cách ruộng đất của Trung C ộng quá phức tạp làm Mao Trạch Đông "mù loà" chấp nhận bán món hàng cải cách ruộng đất cho Việt Nam, và Hồ Chí Minh cũng không tránh khỏi "đui mù và điếc", Tất nhiên Trung C ộng hoàn tất đã làm phiên bản cải cách ruộng đất bảo đảm Hồ Chí Minh thực hiện sẽ thành công như Mao Trạch Đông. Việt Cộng chỉ đơn giản tin lời cam kết của Mao Trạch Đông, bất kỳ lỗi hay sai trái trong hành động cải cách ruộng đất đều biến mất trong lòng đảng, cuối cùng rồi Hồ Chí Minh vẫn chiến thắng, "Bác" đã tuyên bố "quyền lợi của đảng ta toàn chiến thắng"!
Việt Cộng và chính sách cải cách ruộng đất quá sai lầm được sửa đổi thu nhỏ lại chỉ còn hoạt động vùng ngoại ô Hà Nội. Nhân dịp viết bài này, chúng tôi xin đọc lại bài thơ trào phúng ngắn của người dân nông thôn Nghệ An, Hà Tỉnh nổi dậy chống đối đảng Cộng sản của Hồ Chí Minh, vào năm 1955, đã được người dân loan truyền rộng rãi:
"Bác Hồ nói để sửa sai
Sai về việc thay đổi, thay đổi và sai
Xuất sắc bên mới nổi
Các sai lầm, để thay đổi để thay đổi tất cả các sai".
ÿ Huỳnh Tâm
Chú thích.
[1] "chấp hành xử quyết hành hình thị dã man đích hành vi", "tuyệt đối bất khả chấp hành xử quyết hành hình, nhược thôi hành xử quyết hành hình thị dữ đảng hòa chánh phủ đích chánh sách tương vi bối, dữ cách mệnh đích tác phong tương vi bối".
[2] "nhất tràng oanh thiên động địa đích cách mệnh", và "sung phần phóng thủ phát động quần chúng".
[3] "đương yếu bả loan khúc liễu đích trúc điều tái lộng trực thì, nhĩ yếu bả tha phản khuất quá lai nhất điểm tịnh thủ trì cửu ta, nhiên hậu tài phóng thủ, na yêu tài khả lộng trực.
[4] phóng thủ phát động quần chúng,tiến hành thổ cải vận động.
[5] "mục tiền hình thế dữ thổ cải vận động đích nhậm vụ".
[6] "沧海一粟" và ( Giọt Nước Trong Biển Cả ).