“ …Thời nay các ông Trọng, Sang, Dũng thay mặt đảng CS Việt Nam tiếp tục thi hành chiến lược "đảng còn dân mất". Đảngtiến nhanh, tiến mạnh không ngừng, quyết tâm nâng cao trung thành với ông anh Trung Cộng, hầu để nhận được tín nhiệm của Bắc triều…”
Ngày 19/6/2013, các nhà lãnh đạo đảng CS Việt Nam đến Bắc Kinh hưởng qui chế ngoại giao liên quốc, sinh hoạt xôn xao theo từng ban bộ của chương trình nghi lễ, khánh tiết… Quan trọng nhất ngày "Tuyên Bố Chung", nghi lễ ký 10 văn kiện phát triển lợi ích toàn diện của hai đảng anh em CS Trung-Việt. Giới truyền thông tham dự lấy tin và phổ biến rộng rã. Những phóng viên, ký giả nghị trường chuyên nghiệp cho biết:
‒ Quá ngỡ ngàng trước 10 văn kiện đầu hàng vô điều kiện của đảng CS Việt Nam, hai đảng anh em, cố ý đưa người dân vào khoanh vành khổ đau không công bằng, và quá nhiều thiệt thòi.
Trong thời khắc này đang diễn ra lễ ký văn kiện 2. Vẫn theo nội dung muôn năm đã cũ, nay soạn lại thêm những từ ngữ mới cho văn kiện Tập Cận Bình hiệu ứng hơn, tuy nhiên lần này có bổ túc vài dữ kiện có tính nuốt trửng lân bang, với một đầu đề chủ ý trước và khẳng định hung hăng toàn diện bằng vũ lực [1]. Nội dung Văn kiện 2:
"‒ Hiệp định Hợp tác Quốc phòng biên giới giữa hai nước 国防部之间的边境合作协议.
Quốc phòng bộ chi gian đích, biên cảnh hợp tác hiệp nghị
Hai bên đã xem xét mối quan hệ giữa Việt Nam và quá trình phát triển, nhất trí rằng quan hệ hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc là tài sản chung của nhân dân hai nước, sẽ theo hai nhà lãnh đạo tái khẳng định trong những năm qua về sự phát triển của đạt thân thiện với sự đồng thuận quan trọng. Tiếp tục tuân thủ: "Hữu nghị láng giềng, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tiếp cận phương pháp 4 tốt "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" theo tinh thần, không ngừng nâng cao sự tin cậy chiến lược của Đảng, tăng cường hợp tác cùng có lợi trong các lĩnh vực khác nhau và xử lý đúng đắn các vấn đề, tăng cường phối hợp các vấn đề quốc tế và khu vực, và thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và sự phát triển lành mạnh và ổn định lâu dài".
Sau khi công bố "Văn kiện 2", tại Bắc Kinh đã có lời gần tiếng xa.
Trong văn khế này, từng ấy con chữ lại biến hiện chân dung Cáo già Trung Cộng, nó đứng dậy gây chuyện nổi sóng gió ba đào mùa Hạ, đẩy mạnh kế sách quốc gia khuất phục "chư hầu", đã thành văn khế lịch sử ngoại giao Trung Quốc. Dĩ nhiên Bắc Kinh đắc thắng, tạo nguồn cảm hứng chính trị, hấp dẫn quân sự đối với những nhà lãnh đạo Trung Cộng. Trái lại đảng CS Việt Nam thể hiện hết chức năng, lấy vũ lực hậm hực với dân, lấy bạc nhược co ro với giặc. Vì muốn Trung Cộng hài lòng, hẵn nhiên nhà nước CS Việt Nam không từ bỏ một vũ lực nào đối phó với nhân dân, khi người dân biết lấy lương tri dân tộc phê phán Trung Cộng.
Ngày lịch sử 19˗20/6/2013, nhân dân Việt Nam khởi đầu cuộc sống mới, theo luật lệ phán quyết của Trung Cộng, nhân dân cả nước phải thực hiện "tài sản chung". Phi lý thay, nhân dân Trung Quốc-Việt Nam làm gì có "tài sản chung", thực chất một cách nói mỵ dân, cho người dân một hơi thở sống ảo, kẻ giả tâm, gian trá cũng muốn tránh né phê phán của nhân dân Việt Nam và Quốc tế.
Không còn biện luận nào che giấu cái thi thể đảng CS Việt Nam và Trung Cộng, như hai mà một nhà nước Bắc Kinh, đương nhiên tài sản này, biến thành lợi ích chung của những lãnh đạo đảng CS. Ngày nay CS trị xem người dân Việt Nam không khác nhiên liệu, và lấy dân biến chế thành sản phẩm, cuối cùng qui nạp tài sản về một túi dết của lãnh đạo đảng, cho nên dân gian Trung Hoa có câu: "党领导富的人痛苦" ( Đảng lãnh đạo phú đích nhân thống khổ) - Đảng giàu lãnh đạo nhân dân khốn khó" .
Dù che đậy sâu thẳm mọi dối trá trong văn kiện, cũng sớm ngày phơi bày sự thật, như quái vật 16 chữ vàng và 4 tốt không ngoại lệ, nó đã truyền mệnh lệnh buộc Việt Nam phải phục vụ cho lợi ích riêng của đảng, và nó cứ tiếp tục làm thiệt hại vô lường đối với dân tộc Việt Nam.
Vi khuẩn CS Mao không chân dung, thế nhưng biết đứng, biết đi, chúng nó biết tuân thủ mệnh lệnh bằng văn khế và khẩu dụ, nó có khả năng làm băng hoại toàn diện một dân tộc. Đời sống của nó thong thả xâm nhập, phát triển trong bộ máy đảng CS và nhà nước Việt Nam, cho đến ngày nay, nó có đầy đủ sinh lực mạnh, hoạt động rất tích cực, hợp đồng nào cũng hữu hiệu, kết quả tốt, Trung Cộng thành công lớn trong chiến lược áp chế Việt Nam nhờ chiến lược "nuốt mềm con Sứa" theo từng thời gian (1940˗2013).
Kế sách chiến lược "Đồng Hồ 2013"của Bắc Kinh, thôn tính toàn diện lãnh thổ và biển Đông của Việt Nam không phải trả chi phí nào cho một viên đạn, cũng để ngụy tạo liên minh Trung Quốc-Việt Nam chung sống hòa bình. Nguồn: Hải Âu˗Quân đội báo.
Vào những ngày này, vừa phổ biến trong nội bộ lãnh đạo trung ương của đảng về chiến lược "Đồng hồ 2013". Trung Cộng đã có phương tiện đảng CSVN làm hậu thuẩn tốt cho công cuộc thôn tính Việt Nam, điều này không cần bàn luận đến bởi sự kiện đã hiển nhiên khi ông Trương Tân Sang chính thức chứng đàn lũ, lễ ký 10 văn khế, sau đó nó hành động bằng cách nào, sớm hay muộn thôn tính được Việt Nam, mới là vấn đề hôm nay cần phải biết đến: Văn kiện 2. Nó nổi cộm nhất bởi mở đầu cái tựa đề "Hiệp định Hợp tác Quốc phòng biên giới giữa hai nước ‒ 国防部之间的边境合作协议".
Tuy nội dung của "văn kiện 2" không đề cặp rõ ràng về lãnh thổ, biển Đông, và phạm trù quốc phòng, thế nhưng nó lại nhấn mạnh tính cách chính trị và quân sự, theo suy nghĩ ngầm của Trung Cộng, trong nội dung bao trùm toàn diện hoạt động lên xã hội đất nước Việt Nam. Trung Cộng khai thác tối đa "16 chữ vàng, và 4 tốt", tức nhiên trong ẩn dụ ngữ này, nó lấy vũ khí đe dọa kẻ khác và buộc phục tùng.
Để rồi Việt Nam đã bỏ ngõ biên giới, điển hình nhất biên giới Tây Bắc, Đông Bắc và vùng biển Đông. Trung Cộng đã làm chủ và không giới hạn lòng tham, tại biển Đông của Việt Nam, họ đã chiếm cứ gọi chung "biển Nam Trung Quốc". Niện nay người dân Việt không biết vùng biển Đông của mình còn hay đã mất, hầu như lực lượng Hải quân Việt Nam thu hẹp lại chỉ tuần giang ở sông˗ngòi không thấy hoạt động ngoài khơi vùng biển Đông! Thì ra trong Văn kiện 2, đã khẳng định từ nay Hải quân Việt Nam làm nghĩa vụ công nhân cho Hải quân Trung Cộng!
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và đồng Chủ tịch Bắc triều Tập Cận Bình, cùng nhau chứng kiến ký khế thư, Văn kiện 2. "Hiệp định Hợp tác Quốc phòng biên giới giữa hai nước". Ảnh: Hải Âu Toàn Cầu Báo.[1]
Ý nghĩa của phương châm 16 chữ vàng:
‒ "Hữu nghị láng giềng" (睦邻友好 ˗ Mục lân hữu hảo) yêu cầu hai bên phải làm người láng giềng tốt, người bạn tốt, trước sau xử lý mọi vấn đề trong quan hệ hai nước với tinh thần hữu nghị láng giềng.
‒ "Hợp tác toàn diện" (全面合作 ˗ Toàn diện hợp tác) không ngừng củng cố, mở rộng và sâu sắc sự giao lưu và hợp tác giữa hai đảng, hai nước trong mọi lĩnh vực, để mưu cầu hạnh phúc cho hai nước và nhân dân hai nước, đồng thời góp phần cho việc giữ gìn và thúc đẩy nền hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
‒ "Ổn định lâu dài" (长期稳定 ˗ Trường kỳ ổn định)nhấn mạnh tình hữu nghị Trung˗Việt là phù hợp lợi ích căn bản của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, bất kỳ lúc nào, bất kỳ tình hình nào đều phải giữ sự ổn định và phát triển lành mạnh của quan hệ hữu nghị, khiến nhân dân hai nước đời đời hữu nghị với nhau.
‒ "Hướng tới tương lai" (面向未来 ˗ Diện hướng vị lai) hiện nay và tương lai, hai đảng kế thừa truyền thống đã có, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho quan hệ Trung˗Việt [2].
Ý nghĩa tuân thủ 4 tốt:
‒ "Láng giềng tốt" (好邻居 ˗ Hảo lân cư) Tình lân bang, chung sống không phân biệt biên giới lãnh thổ và lãnh hải, biển Đông nay gọi biển Nam Trung Quốc, đã trải qua 14 năm (1999-2013) cùng khai thác tài nguyên đồng hưởng lợi, đã quan hệ láng giềng tốt nay phải phát triển bền vững hơn.
‒ "Bạn bè tốt" (好朋友 ˗ Hảo bằng hữu) Tình bằng hữu sống với nhau cần biết xử lý đúng đắn các vấn đề quyền lợi chung.
‒ "Đồng chí tốt" (好同志 ˗ Hảo đồng chí) Tình đồng chí, tình đồng đảng CS Trung Quốc-Việt Namtăng cường phối hợp các vấn đề nội bộ,quốc tế và khu vực.
‒ "Đối tác tốt" (好伙伴 ˗ Hảo hòa bạn) Việt Nam đối tác tốt, Trung Cộngđầu tư lớn vào lãnh thổ, lãnh hải, thúc đẩy mội khai thác, phát triển lành mạnh nhiều lãnh vực và ổn định lâu dài".
Cũng nên biết thêm sự khởi xuất "16 chữ vàng và 4 tốt". Từ lúc diễn ra Hội nghị Việt Nam-Trung Quốc ở Thành đô Tứ Xuyên, vào ngày 3 tháng 9 năm 1990. Đánh dấu đảng CS Việt Nam đầu hàng, chấp nhận dâng lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Cộng. Lúc ấy Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã báo động "một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!". Nay hiện thực đã đến, mỗi khi Trung ương đảng CS và nhà nước Việt Nam thay đổi nhân sự trong ban lãnh đạo mới, tức thì có lệ triều cống, dâng lên cho Trung Cộng những đặc quyền rộng rãi, trưng dụng lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. [3]
Hàng đầu: Tổng bí thư Giang Trạch Dân cùng Thủ tướng Lý Bằng đứng giữa. Phía bên phải Giang là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng (chắp tay). Phía bên trái Lý là Thủ tướng Đỗ Mười, Chánh văn phòng TW Hồng Hà, Thứ trưởng ngoại giao Đinh Nho Liêm. Nguồn: Tân Hoa Xã đơn phương công bố, dù 2 bên đã cam kết đây là cuộc họp tuyệt mật.
Sự manh nha đã có từ trước và cũng đến lúc thực hiện chế độ Bắc triều. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1999 Bắc Kinh. Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc Giang Trạch Dân, nguyên cha đẻ của phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt. Chính ông Tổng bí thư đảng CS Việt Nam Lê Khả Phiêu hân hoan tiếp nhận và thi hành chung thủy tốt. Đảng CS Việt Nam lấy đó làm xác tín "tư tưởng chỉ đạo trên khung tổng thể phát triển quan hệ hai đảng bền vững". Trung Cộng còn sáng tạo và biến chế công thức buộc trói Việt Nam phải thi hành "hữu nghị, chung thuỷ " để làm mẫu mực cho đời sau. Đánh dấu một cuộc chơi chính trị ngoạn mục của Trung Cộng, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển (Vàng-tốt) được các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước xác định trong "Tuyên bố chung 1999".
Ngày 18 tháng 11 năm 1999 Bắc Kinh. Tổng bí thư đảng CS Việt Nam Lê Khả Phiêu, tiếp kiếnTổng bí thư đảng CS Trung Quốc Giang Trạch Dân. Nguồn: Tân Hoa Xã.
Tháng 11 năm 2000, Tổng bí thư đảng CS Việt Nam Nông Đức Mạnh đến Bắc Kinh, yết kiến Tổng bí thư Trung Cộng Giang Trạch Dân, 5 năm sau, ông Giang Trạch Dân khuếch đại mười "16 chữ vàng", thành chiến thuật "răn đe buá đục" rất quan trọng đối với sự sống còn của Việt Nam. Kết quả ngày nay, nó đã thành chính sách chỉ đạo chư hầu.
Tháng 11 năm 2000, Tổng bí thư đảng CS Việt Nam Nông Đức Mạnh đến Bắc Kinh, yết kiến Tổng bí thư Trung Cộng Giang Trạch Dân.Nguồn: Tân Hoa Xã.
Bắc Kinh, ngày 19˗20/6/2013. Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, yết kiến Chủ tịch Bắc triều Tập Cận Bình. Tiếp tục thúc đẩy "Tuân thủ 16 chữ vàng, và tiếp cận 4 tốt". Từ đây các nhà lãnh đạo đảng CS Việt Nam thay nhau nhắc nhở thực hiện truyền thống lời răng của Trung Cộng, và được xem một chiến lược bền vững tồn tại của chế độ.
Ngày 19/6/2013 Bắc Kinh.Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, và Chủ tịch Bắc triều Tập Cận Bình, không quên nghĩa vụ ký kết văn kiện tiếp tục buộc nhau. Nguồn: Tân Hoa Xã.[4]
Trước ngày Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang viếng thăm Bắc Kinh, 19/6/2013, bỗng sôi động những sinh hoạt thảo luận, trong giới Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu nghị quân cán chính cao cấp, và cả khoa học xã hội nhân văn. Phiá truyền thông có báo giới, bình luận, biên khảo, và giới làm văn nghệ tuyên truyền.
Họ tích cực tham gia đào bới, sới móc nội dung văn kiện "Hiệp định Hợp tác Quốc phòng biên giới giữa hai nước". Có những tiên kiến, lý luận, định nghĩa, nhận định tất cả đều cùng tương kiến ở mức bi quan, và đưa ra những kết luận chung rất phủ phàng cho đất nước Việt Nam, người ta qui trách nhiệm và tội lỗi này do Trung Cộng tạo dựng. Khi ấy Việt Nam tuân thủ thi hành tuyệt đối, họ vô trách nhiệm đối với dân mình, điều quan trọng ở đây, họ chịu trách nhiệm thi hành và bảo đảm tốt đối với Bắc Kinh.[5]
Những buổi thảo luận thế này, ai cũng thừa biết Trung Cộng có những chiến lược quá thâm độc, quen dùng từ ngữ trong một bản văn, ngõ hầu chế ngự đối tác, nó không còn một loại ngôn ngữ xa lạ đối với các nhà lãnh đạo Trung Cộng, kể cả quản lý toàn diện các vấn đế khác nhau không riêng về mặt quân sự. Đã gọi là văn kiện phi ngoại giao thì không bao giờ đề cặp đến đạo lý sống của con người, cũng như chiến tranh không bao giờ nói đến tình yêu nhân loại !
Trong những tuần lễ thảo luận, giới báo chí có nhiều bình phẩm trào phúng cho rằng:
‒ Ông Giang Trạch Dân cha đẻ của "Hai mươi tám từ" (28) được gọi là "Nhị thập bát Giang Hồ". Quý bạn đừng hiểu lẫn lộn "Nhị thập bát tú" của Kim Dung. Trái lại "Nhị thập bát tú" ở đây có định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi nó có biệt danh "Nhị thập bát cáo già", ám chỉ 28 nhân vật tinh ranh nhất trong bộ chính trị đảng CS Trung Quốc. Trong 28 từ, chia thành hai cụm từ, cụm 16 từ, được hóa ngữ pháp mâu thuẩn "Hữu nghị láng giềng, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Đặc biệt các nhà lãnh đạo đảng CS nhà nước Việt Nam, ung dung tiếp nhận, rước giặc vào nhà, quảng cáo ồn ào biến thành tư tưởng lớn, bác đảng cả nước thi nhau học tập, theo gương "16 chữ vàng" quí báu.
Theo ngôn ngữ của người Hán con số 16 từ trên, có ý "bạc" (không viết Hoa), ý khinh miệt đối tác, cư xử với nhau bạc bẽo, bạc nhược.. nói chung Giang Trạch Dân có chủ ý trút xuống đầu dân tộc Việt Nam những thứ bạc ấy, thay vì ông nói Việt Nam "man di" như người Hán xưa đã từng khinh miệt người phương Nam.
Còn cụm 12 từ, "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" để đảng CSVN tự hiểu Bắc Kinh là trung tâm mạng trời. Tất cả 12 con giáp của dân tộc Việt Nam (90 triệu dân) cần phải tốt với Bắc Triều, người Hán cho rằng cụm 12 từ, tương đương lãnh thổ nhỏ ở trong lãnh thổ lớn, bởi con số 12 nguyên chủ của những con số cung cấp đời sống. Đảng CSVN hoan hỷ tiếp nhận "4 tốt", và tự hào bạn Trung Cộng có tình người, ban ân hiện đại hoá cho Việt Nam.
Thực chất những con chữ đến từ Trung Cộng, có tính đặt đâu ngồi đó, một khi văn kiện đã ký rồi, cả dân tộc Việt Nam khó sống, nó còn có khả năng tàn phá khủng khiếp, kinh hoàng và nó phát triển lớn dần từng ngày tháng.[5]
Ngày nay, bộ máy đảng và nhà nước Việt Nam đã bị Trung Cộng khống chế hoàn toàn, yếu huyệt của lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam cũng bị Trung Cộng chiếm cứ, và những chuyến đi Bắc Kinh của các lãnh đạo đảng CSVN để hợp thức hoá những gì đã mất, cướp có hoá đơn.
"Mười sáu chữ vàng, và bốn tốt" khai thác bừa bãi, lòng dân đã trải qua 14 năm kiệt quệ (1999-2013). Nhân dân Việt Nam sống thừa không ra người, hưởng dùng những gì của đảng có để rồi đời sống hụt hơi, chết dần mòn như tài nguyên Việt Nam cạn kiệt. Thời nay các ông Trọng, Sang, Dũng thay mặt đảng CS Việt Nam tiếp tục thi hành chiến lược "đảng còn dân mất". Đảng tiến nhanh, tiến mạnh không ngừng, quyết tâm nâng cao trung thành với ông anh Trung Cộng, hầu để nhận được tín nhiệm của Bắc triều. Đảng cũng bất cần, bởi đảng phải sống! Dù nay đời sống của nhân dân đến lúc quá khốn khó, tinh thần quằn quại.
ÿ Huỳnh Tâm
Tham khảo:
[1] – 中国东海霸权主义明显谈判只为拖延时间. (Trung Quốc Đông Hải bá quyền chủ nghĩa minh hiển đàm phán chỉ vị tha duyên thời gian)
[2] – 2013年越中联合声明 . (Niên Việt Trung liên hiệp thanh minh)
[3] – Phương châm 16 chữ vàng .
[4] – 美国称中国某些做法实在阴险不能接受 . (Mỹ quốc xưng Trung quốc mỗ tá tố pháp thực tại âm hiểm bất năng tiếp thu)
[5] – 中国海军准备在海上开战野心已超越太平洋. (Trung Quốc hải quân chuẩn bị tại hải thượng khai chiến dã tâm dĩ siêu hoạt thái bình)