Giải mật: Việt Cộng trả bao nhiêu nợ cho vừa lòng Trung Cộng.[1]
Từ năm 1940 đến năm 1976, Trung Cộng sản xuất quy mô các loại vũ khí, trang thiết bị quân sự, phần lớn cung cấp toàn diện cho quân đội Việt Cộng suốt cả chiều dài cuộc chiến tranh Việt Nam đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Theo tài liệu Trung Cộng đã cho Việt Nam vay hơn 260 tỷ đô la không lãi tạo điều kiện thực hiện chống Pháp và chiến tranh thống nhất miền Nam Việt Nam. Trung Cộng tỏ lòng kiên quyết tích cực hỗ trợ chính sách chiến tranh của nước Việt Nam Cộng hòa Dân chủ. Sau mùa hè năm 1962, các nhà lãnh đạo Trung Cộng và Việt Cộng họp tại Bắc Kinh cùng nhau ký kết viện trợ qui ước lâu dài. Trung Quốc quyết định cung cấp cho Việt Cộng toàn bộ trang bị miễn phí trên 1,2 triệu tay súng gồm bộ binh, không quân, hải quân, pháo binh tình báo đặc công và nữ quân nhân trước văn công (sau gái giải sầu).
Năm đó, Mao Trạch Đông tiếp Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Mao nhấn mạnh: "Chúng ta cùng giúp đỡ lẫn nhau giữa tình bạn để chống kẻ thù chung, chúng tôi không thể để chết người em Việt Cộng bất cứ vào lúc nào". Năm sau vào tháng Ba, phái đoàn quân sự Trung Quốc do Tham mưu trưởng La Chí Tường đến thăm Việt Nam, thảo luận kế hoạch "hai quân đội Trung-Việt phối hợp chiến đấu", một tháng sau Trung Cộng gửi thiết bị vũ khí đến Việt Nam và cung cấp hậu cần, đạt đến mục tiêu thỏa thuận qui mô quân sự chưa từng có.
Vào đầu năm 1964 Hoa Kỳ bắt đầu lên kế hoạch mở rộng tăng viện cho Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam). Mao Trạch Đông đứng trước tình hình quân sự mới tại Việt Nam, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa Dân chủ (miền Bắc) đoàn kết chặt chẽ hơn với nhân dân Trung Quốc và hai chính phủ thường xuyên gặp gỡ tại Bắc Kinh hay Hà Nội. Đầu tiên Hồ Chí Minh chủ động đề xuất gửi đặc sứ BCT/Trường Chinh đến Bắc Kinh ký kết vũ khí bổ sung cung cấp cho chiến tranh, trong cuộc đàm phán Hồ Chí Minh quyết định trao cho Trung Cộng toàn quyền quản lý "Vịnh Bắc Bộ", đổi lấy vũ khí của Trung Quốc phải tăng cường tung ra hết nỗ lực đổ vũ khí vào chiến trường Việt Nam. Ngày 13 tháng 8, Mao Trạch Đông bí mật tiếp Lê Duẩn đề xuất sửa chữa lại một hoặc hai sân bay lớn tại tỉnh Vân Nam chuẩn bị không quân chiến đấu, không thể sử dụng không quân trên đất Việt Nam. Trung Cộng cam kết bổ sung và chuyển giao một bộ phận không quân chiến đấu, tiếp theo chuyển giao Air Division, Simao hai bộ phận chống máy bay cho cho Việt Cộng.
Từ phải: Hoàng thân Souphanouvong, Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước, Hồ Chí Minh và Hoàng thân Suvanna Phuma Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Lào. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Bộ trưởng Quốc phòng Lâm Bưu dẫn đầu một phái đoàn đến thăm Hà Nội, công tác đầu tiên kiểm tra thực lực chiến đấu của Việt Cộng, bắt đầu đàm phán thực hiện hoạt động chung và viện trợ quân sự thiết thực hơn. Trong tháng mười hai, Trung Công và Việt Cộng đồng ký kết một liên minh thỏa thuận quân sự. Trung Cộng gửi trước 300.000 quân gồm (bốn sư đoàn bộ binh, một sư đoàn pháo binh, một sư đoàn hải quân, một sư đoàn công binh, một sư đoàn tăng thiết giáp, và hai sư đoàn tổng hợp đặc công, quân y, thông tin, vận tải, kỹ thuật bộ binh cơ giới và gái giải sầu). Quân đội Trung Cộng chiệu trách nhiệm trấn thủ những điểm yếu tại miền Bắc. Nói đúng hơn nước Việt Nam Cộng Hòa Dân Chủ trao cho Trung Cộng quản lý đất nước của mình. Do đó, quân đội nhân dân miền Bắc Việt Nam trải rộng hành quân vào miền Nam Việt Nam, triển khai đến các phần phía Nam. Với việc mở rộng chiến tranh, Trung Cộng bắt đầu cung cấp hỗ trợ miễn phí, mặt khác cung cấp vũ khi trang bị cho MTDTGPMN Việt Nam trở thành quân thiện chiến và quy mô tương đương với quân đội miền Bắc Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ, từ năm 1962-1966 Trung Quốc gửi viện trợ cho Hồ Chí Minh hơn 2 triêu vũ khí khác nhau, hơn 25.400 pháo binh đủ loại, 30 triệu đạn pháo, hơn 90 triệu viên đạn đủ loại, 1400 tấn chất nổ, 2,7 triệu bộ quân phục, vải 1400 vạn mét, và một số lượng lớn các màn chống muỗi, dép cao su, thực phẩm thiết yếu, giao thông vận tải và thiết bị truyền tin, liên lạc. Trung Cộng tích cực rót mạnh mẽ vũ khí và quân đội vào chiến trường miền Nam Việt Nam, hy vọng đối đấu chống lại chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa, Trung Cộng buộc Việt Công không được thụ động bởi chính sách viện trợ chiến tranh không hạn chế và cả viện trợ kinh tế dồi dào cho Việt Cộng.
Ngày 03 tháng 8, Moscow công bố một báo cáo tóm tắt. Lập trường và thái độ đối với Việt Cộng có thể không hối tiếc. Trong khi đó Việt Cộng cần đồng minh trong khối xã hội chủ nghĩa, cho nên gian bàn tay ra xin viện trợ, sẽ quyết định chuẩn bị chiến tranh trước mùa hè năm 1964, trên thực tế chỉ có Trung Cộng cung cấp nhiều nhất những loại vũ khí và trang thiết bị, kể cả thực phẩm, giao thông vận tải và các hỗ trợ khác cho Việt Cộng miền Bắc Việt Nam. Kết quả Việt Cộng hoàn toàn phụ thuộc viện trợ Trung Quốc.
Việt Cộng thừa thãi vũ khí và tay súng.
Ngày 9 tháng 11 năm 1964, Phạm Văn Đồng và phái đoàn đại biểu chính phủ thăm Liên Xô, cầu viện kinh tế, quân sự để đạt được một đồng thuận nghĩa vụ Quốc tế công sản, phía Liên Xô đã ban hành tuyên bố chung, lần đầu tiên Liên Xô cam kết cung cấp viện trợ quân sự và tài chính cần thiết cho Việt Cộng. Đầu tháng 2 năm 1965 Thủ tướng Liên Xô Alexei Kosygin Nikolayevich thăm Hà Nội, thảo luận về vấn đề viện trợ quân sự, Lê Duẩn ký thỏa thuận tăng cường khả năng phòng thủ và viện trợ cho Việt Cộng, từ tháng 4 năm 1965. Lê Duẩn dẫn đầu một phái đoàn đến thăm Liên Xô, các cuộc đàm phán với Liên Xô thành công, xác định cụ thể, bao gồm cả số lượng viện trợ và bổ sung quân sự. Hà Nội được Liên Xô quan tâm cung cấp một số lượng lớn những loại vũ khí phòng không. Theo ước tính của tình báo Mỹ, trong vòng một năm Liên Xô đã cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Cộng hơn 100 triệu đô la Mỹ.
Năm 1968, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều đặn, mặc dù tổng số tiền viện trợ của Liên Xô năm 1967 vẫn đứng sau lưng Trung Cộng, nhưng viện trợ vũ khí quân sự cao hơn nhiều so với Trung Cộng. Năm 1968, Liên Xô viện trợ vũ khí cho Việt Nam đã đạt đến số lượng 357 triệu rúp, tương đương tổng số viện trợ tài chánh 524 triệu rúp. Liên Xô viện trợ cho Việt Cộng với tổng số 50% sản lược quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đến năm 1969 Việt Cộng-Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán, sau chiến tranh Việt Nam cho thấy Trung Cộng và Liên Xô đứng sau sân khấu chính trị miền Bắc Việt Nam. Mặc dù số lượng viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam đã giảm, nhưng vẫn ở mức 200 triệu USD mỗi năm. Từ năm 1965 đến năm 1973, Liên Xô viện trợ kinh tế cho Việt Nam tổng cộng 10 tỷ rúp và hơn 20 tỷ đô la viện trợ vũ khí.
Sau đó Brezhnev tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Cộng, từ đó vị trí của Liên Xô thuộc vào đòn bẩy chiến tranh hiệu quả đáng kể. Nói cung Trung Cộng và Liên Xô viện trợ càng cao nhân dân Việt Nam chết càng nhiều cao hơn núi!
Ngày 22 tháng 3 năm 1965, tiếp phái đoàn quân sự Liên Xô thăm Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng báo cáo thành quả chiến tranh, về cơ bản cần viện trợ trang bị vũ khí chiến đấu và thiết bị kỹ thuật mới của Liên Xô, tăng cường càng nhiều càng tốt, so với số lượng vũ khí Trung Cộng, Liên Xô quyết định xây dựng cho Việt Cộng một quân đội chính quy hiện đại, cung cấp các điều kiện và đảm bảo cho chiến tranh, theo sau Trung Cộng leo thang cung cấp viện trợ vũ khí trực tiếp tạo ra sức mạnh mới cho Việt Cộng. Tuy rằng Trung Cộng ít hơn so với Liên Xô, nhưng tư tưởng cách mạng Cộng sản và tinh thần chủ nghĩa quốc tế của Mao Trạch Đông trội hơn, đẩy Hồ Chí Minh tiếp tục chiến đấu chống lại miền Nam Việt Nam, Trung Cộng không ngần ngại nỗ lực viện trợ lâu dài. Thật vậy, đối với Việt Cộng, viện trợ của Trung Quốc trực tiếp và kịp thời gian tính của chiến tranh. Đến tháng 5 năm 1966, viện trợ của Trung Cộng, bao gồm bộ phận chống máy bay, tổng cộng 23 triệu viên đạng đại pháo.
Tháng 8 năm 1966, Mao Trạch Đông gặp Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ MTDTGPMN, Mao phát biểu: "Quân đội Giải phóng miền Nam Việt Nam trong chiến khu không có màn, áo mưa, lương thực, thuốc là, tôi thấy rằng cần gửi gấp đến đó cho họ". Trong nguồn cung cấp viện trợ cho Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tăng khẩu phần lưng thực nén, thịt lợn, đóng hộp, cá muối, bột trứng, áo mưa, màn chống muỗi và các thiết bị y tế. Chu Ân Lai tuyên bố: "yêu cầu viện trợ cho Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu của chúng tôi cần phải thực hiện cho quý đồng chí phía Nam".
Đầu tháng 4 năm 1965, Lê Duẩn đề nghị phái đoàn chính phủ Trung Cộng gửi thêm quân sang Việt Nam để hỗ trợ các yêu cầu chiến trường. Vào tháng 6 Trung Cộng thỏa thuận "gửi thêm quân đội" hỗ trợ cho Bắc Việt Nam, cho đến hết tháng 3 năm 1968 mới kết thúc, Trung Cộng viện trợ bổ sung lực lượng phòng không cho Việt Nam, lực lượng quốc phòng xây dựng đường sắt, lực lượng 32 Biệt đội, tổng cộng 11 triệu binh sĩ đã vào lãnh thổ Việt Nam theo thừng đợt tử năm 1964-1969. Trung Quốc cung cấp tài trợ tiền mặt cho Việt Cộng trên 180 triệu USD. Gồm súng, đạn, vỏ bánh xe, tàu, xe tăng hạng trung và xe tăng lội nước, xe bọc thép, xe hơi, máy bay, vật liệu nổ, động cơ có dây, radio, đồng phục và rất nhiều dầu, thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế và các mặt hàng quân sự khác, lên đến 8,26 tỷ nhân dân tệ, có khả năng trang bị hơn 200 triệu người.
Từ trái: Vua Cao Miên Sihanouk, Chủ tịch MTDTGPMNVN Nguyễn Hữu Thọ, Thủ tướng chính phủ VNCHDC Phạm Văn Đồng, Chủ tịch và Souphanouvong, tại Hội nghị nhân dân Đông Dương. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [2]
Trung Cộng cho rằng, kể từ khi viện trợ quân đội cho Việt Nam, nay đã cải thiện chính quy khá nhiều, có khả năng an toàn độc lập. Tránh tình trạng suy giảm chiến tranh trong mối quan hệ ảnh hưởng Trung Cộng. Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cùng đồng thái độ tinh tế đã diễn ra chính sách quan hệ "anh em". Trong khi đó Liên Xô dần dần xa ảnh hưởng đối với Việt Cộng, nhường chiến tranh Đông Dương cho Trung Quốc chủ động. Tuy nhiên những quốc gia trong khối Cộng sản tiếp tục viện trợ dồi dào. Năm 1969 Hồ Chí Minh qua đời, Trung Quốc không thể tin vào tình "anh em" mới, viện trợ quân sự cho Việt Cộng phải kiểm soát chặt chẽ. Trong cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Việt Cộng-Trung Cộng, Mao tuyên bố: "Có vẻ bạn đang giàu có những nguồn nhân lực, cung cấp vũ khí và quân đội không phải là khó khăn. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng bạn sẽ xem xét làm thế nào để sử dụng tốt hơn và thích hợp hơn nguồn nhân lực của riêng bạn". Mao, cảnh cáo một khi tiếp nhận viện trợ và vũ khi hãy ý thức sử dụng cho hợp lý.
1970-1972, mặc dù giai đoạn cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, Liên Xô vẫn đảm bảo tiến trình viện trợ quân sự theo đàm phán hòa bình để giảm số lượng chiến tranh Việt Nam, nhưng vẫn ký kết với Việt Cộng mỗi năm (5) năm ký lại Hiệp định viện trợ. Tháng 8 năm 1970, Liên Xô tiếp tục cung cấp thiết bị hơn 90 doanh nghiệp, công nghiệp và các dự án khác tại miền Bắc Việt Nam. Vì vậy, hai bên thường xuyên tổ chức cuộc họp cấp cao, nghiên cứu viện trợ nhiều và đồng ý hợp tác chính trị theo nhịp độ chiến tranh.
1969-1971, Moscow-Hà Nội ký viện trợ và hợp tác kinh tế, đó là việc tăng cường lực lượng quốc phòng theo thỏa thuận bổ sung đã ký vào năm 1971. Năm 1972, Liên Xô cung cấp tên lửa ED và viện trợ quân sự cho Việt Cộng. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Liên Xô không chỉ cung cấp các loại vũ khí hiện đại nhất gồm máy bay, tên lửa, xe tăng, pháo binh, vũ khí bộ binh, đạn dược, vật tư, thiết bị, phương tiện, các sản phẩm dầu mỏ, kim loại đen, kim loại màu, ngũ cốc, phân bón, dược phẩm, nhà máy điện, đào tạo sĩ quan, có hơn 10.000 du học sinh, những chuyên gia quân sự Liên Xô đến Việt Nam giúp làm chủ kỹ thuật vũ khí hiện đại.
Ngày 03 tháng 11 năm 1977 tại Moscow Lê Duẩn và Leonid Ilyich Brezhnev (Леонид Ильич Брежнев) ký một hiệp ước xô-việt hợp tác hữu nghị. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung Cộng tăng cường nỗ lực viện trợ thiết bị vũ khí cho Việt Cộng.
Năm 1969, Liên Xô ủng hộ thực tế cho các nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam, với điều kiện mối quan hệ Việt-Xô được kiểm soát hoàn toàn an ninh khu vực các quốc gia Đông Dương. Trong khi ấy quan hệ Trung Cộng-Việt Cộng có ít nhiều nhạy cảm, đặc biệt quan trọng hơn đối với Liên Xô, Việt Cộng theo lối ngoại giao "bắt cá hai tay" cùng có lợi, hy vọng sẽ kéo lại gần quỷ đạo Việt Cộng bằng cách tăng cường chiến tranh Việt Nam, để ngăn cản họ đưa vào phạm vi ảnh hưởng Trung-Xô. So với những năm 1960, nhở vậy ngày nay nỗ lực viện trợ vật chất tăng cường rất nhiều.
Tháng 9 năm 1970, Chu Ân Lai tuyên bố: Về cơ bản phía Trung Cộng phải đáp ứng yêu cầu chiến tranh của Việt Cộng, Trung Cộng phải tạo ra sức mạnh lớn hơn để viện trợ cho Việt Cộng. Vào tháng mười một (11) Chủ tịch Mao hướng dẫn rót thêm viện trợ vào các tỉnh miền Nam Việt Nam, tặng 2 triệu nhân dân tệ hàng hóa và 5 triệu USD. Bộ phận ngoại thương Trung Cộng ban hành một thông báo đến các Tổng công ty xuất nhập khẩu đã hết hàng cung cấp cho chiến tranh Việt Cộng, bởi Việt Cộng chưa thanh toán nợ cũ từ năm 1967, nay buộc phải trả sạch nợ một lần, Việt Cộng hứa sẽ có biện pháp để cố gắng hoàn nợ. 1971-1973, Trung Cộng thỏa thuật viện trợ, cung cấp từng ba năm tổng số tiền của thỏa thuận viện trợ đã ký kết gần 90 tỷ nhân dân tệ, nhằm mục đích viện trợ quân sự, viện trợ này giá trị nhiều nhất ở hai năm cuối cùng của 20 năm quan hệ giữa Trung Cộng-Việt Cộng.
Từ năm 1965 đến năm 1976, Trung Cộng sản xuất quy mô lớn các loại vũ khí và trang thiết bị cung cấp cho Việt Cộng. Sau khi thành công trang bị một số thiết bị hiện đại cho lực lượng vũ trang Việt Cộng, đặc biệt quân đội Trung Cộng chưa được trang bị hiện đại mà chỉ ưu tiên viện trợ cho Việt Cộng. Viện trợ cho Việt Cộng đã tăng vượt quá khả năng sản xuất của Trung Cộng, ngay cả khi sử dụng hàng tồn kho thiết bị của quân đội (PLA), thậm chí Việt Cộng triển khai 100% chiến tranh để tiêu thụ vũ khí, một cố gắng tạo ra chiến trường để nhận vũ khí đáp ứng nhu cầu viện trợ.
Năm 1975-1976 Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam đã giảm dần sau khi Việt Nam thống nhất, theo những tài liệu của Trung Quốc, viện trợ cho Việt Nam đạt hơn 200 tỷ đô la giảm giá. (Theo "World Expo" tài liệu có tiêu đề: Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đàm phán bí mật).
Hồ Chí Minh du nhập Cộng sản vào Việt Nam qua cửa chính chiến tranh, đem theo thứ văn hóa thờ chủ nghĩa cá nhân của "Bác", và mô hình giáo dục "Khổng Tử", người xưa cướp làm nô lệ, ngày nay Hồ Chí Minh thực hiện thành công một thứ cướp chưa ai dám suy nghĩ về mô thức đồi trụy lớn nhất của "Bác", Việt Cộng gieo rắc điêu linh đang diễn ra từng ngày, máu chảy theo dòng lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh để lại một di sản vĩ đại trồng người hủy hoại trăm năm (100), nó đang tiếp tục bán từng phần đất nước Việt Nam cho Trung Cộng.
Trước khi Hồ Chí Minh chết, ông ta bí mật để lại một di chúc cho BCT/BCH TƯ Trung Cộng (Mao Trạch Đông) một di chúc không thành văn có quá nhiều bí ẩn hệ lụy đến dân tộc Việt Nam. trong ý nghĩa văn tự đó ít nhất có 2540 từ ngữ Hán, nhưng sau khi công bố chỉ để lại những bí ẩn lâu dài cấm kỵ khám phá. Cho đến bây giờ nó không có đầy đủ các văn kiện về Hồ Chí Minh như đã công bố trước đây vì tất cả đều trong hồ sơ ảo và bí mật Hồ Chí Minh do một nhóm người hoạt động gián điệp của Trung Cộng tạo ra và làm chủ di chúc, trong số các nhà lãnh đạo Cộng sản hành đầu Trung Cộng thường nói đến "tình bạn giả mạo sâu sắc". Nguyên văn "kết hạ liễu thâm hậu đích hữu nghị". Có nghĩa (Hồ Chí Minh bí mật giả mạo người Việt Nam).
Bi kịch chưa từng có, Việt Nam nhận giặc làm "cha già dân tộc".
Đã đến lúc và hy vọng nhân dân Việt Nam không bị mù lòa bởi Cộng sản Hồ Chí Minh và nhóm Trung Cộng đầy dẫy lừa dối, bịp lộng giả thành chân, chưa bao giờ thể hiện tính minh bạch, pha lẫn hành vi cướp lân bang, ngày nay Hồ Chí Minh có được sự nghiệp nhờ ổ gián điệp Trung Cộng thay trắng đổi đen, trong lý lịch Hồ Chí Minh thiếu tính lương thiện cộng với bất lương, mọi sự kiện trá hình chim hóa thành rồng. Cho nên không ai có thể biết đích thực thân thế của Hồ. Vì nguyên do đó, chúng tôi bừng tĩnh khám phá từ cái ác của Hồ Chí Minh, đến nay không thể che mắt nhân dân Việt Nam bởi nguyên nhân Hồ là con đẻ hình nộm dối trá của Trung Cộng.
Trong thực tế cho thấy Hồ Chí Minh lừa dối nhân dân Việt Nam đã quá nhiều, chúng ta đã biết (tiểu sử của Hồ Chí Minh có những khác biệt, thế mà vẫn tự hào cho mình cha già dân tộc). Lưu ý "Hồ... được đào tạo bởi đảng Cộng sản Trung Quốc, khi đó mới 17 tuổi" là một đồng nghiệp với Bào La Đình người Quảng Châu, một lưu ý khác cuối những năm 1940 Hồ tuyên bố "Tôi là cộng sản không phải người Việt Nam".
Kết luận: Trong những báo cáo bí mật của Hồ gửi cho Trung Cộng thường dối trá trước nhân dân Việt Nam, ông ta có những hành động thiếu tính minh bạch, thực chất sau năm 1949 Hồ Chí Minh liên kết chặt chẽ với Trung Cộng, ông ta chủ yếu dựa vào nguồn chính thống Trung Cộng bao gồm cả tác phẩm ban đầu "Nhật ký trong tù". Hồ Chí Minh chưa từng hỏi trong tâm trí của người thiếu tá Hồ Quang một chiến binh thiếu danh dự nhưng rực rỡ về lừa dối nhờ điêu ngoa đã làm cho mọi người bị choáng ngợp bởi sự hoang tưởng và mô tả Hồ một băng đảng mà những gì họ muốn cướp, bi thảm hơn có nhiều người đã chết không cần thiết sau khi những cuộc gặp gỡ với Hồ.
ÿ Huỳnh Tâm