“…Thực chất Trung Hoa ra lệnh dạy bảo đảng CSVN phải bảo vệ biển Đông, không cho nhân dân xuống đường phản đối, để tình hình chính trị ổn định, Trung Hoa an lòng khai thác tài nguyên và phát triển căn cứ hải quân tại biển Nam Trung Quốc…”
Theo truyền thống CS, người cầm quyền luôn tạo riêng cho mình thế thượng phong, củng cố ngai vàng trong đảng, bất chấp mọi thủ đoạn để thành công. Những ngày đầu Tập Cận Bình mới lên ngôi cũng khao khát thể hiện độc tôn đứng trên thiên hạ. Và ông tìm được một đảng CSVN chư hầu đáng tin cậy để xây dựng và tạo uy tín đối với nhân dân Trung Quốc. Ông tập hợp các cấp lãnh đạo đảng Bắc Kinh, thành lập Ủy ban soạn thảo "Phát triển kinh tế ngoại vi", lấy Việt Nam làm trọng điểm phát triển, trong 3 tháng, 10 văn kiện về Việt Nam được hoàn thành tốt. Ông cho mời đảng CSVN đến Bắc Kinh trao lệnh triều cống vô hạn định. Đặc biệt người ta chỉ biết loán thoáng "10 văn kiện khai thác toàn diện Việt Nam", và không ai được quyền biết nội dung của nó, kể cả những nhà lãnh đạo CSVN!
Tập Cận Bình đã chiến thắng lớn. Những người tiền nhiệm của ông phải thán phục, phương châm buộc trói được CSVN, tuân thủ thi hành mệnh lệnh kinh tế. Uy tín của Tập Cận Bình bỗng lớn mạnh trong đảng Trung Hoa cho phép ông đánh mạnh vào tử huyệt của đảng CSVN, vốn đã không có bạn ở khắp năm châu, và càng không có dân. CSVN đã giết dân Việt, chỉ còn lại Công an, Quân đội, và hiện tình chế độ đã thối nát, nay muốn tồn tại phải dựa lưng vào Trung Quốc, điều này các nhà lãnh đạo Trung Quốc thấu hiểu hơn ai hết, bởi thế Trung Hoa "hô mây hoán vũ" không khó đối với đảng CSVN!
Và mọi người cũng cần biết sự phá hủy một quốc gia không khó, cứ tìm hiểu 10 văn kiện đảng CSVN đã ký ngày 19-20/6/2013 tại Bắc Kinh, trước mắt lấp ló thảm kịch, ở đó hiện ra một đất nước Việt Nam thay đổi, mọi tầng lớp xã hội, lao vào lao động vô sản, tài nguyên trên lưng gù, bước chân lững lờ, lặng lẽ di chuyên thành phẩm về hướng phương Bắc. Trung Hoa thừa cơ hội này, tăng tốc khai thác cho đến cạn kiệt nội lực Việt Nam để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và phát triển của Trung Hoa. Trung Hoa cho ra đời 10 văn kiện rất ư phức tạp, với sức phá tinh vi của kế hoạch toàn diện "Việt Nam tơi bời". Trung Hoa dùng ngôn ngữ tạo ra mọi khác biệt, từ lời nói trên môi lừa dối, văn kiện tròng tréo, hành động tùy tiện không bao giờ đồng nhất, và Trung Hoa mang phải trọng bệnh, tự hào đóng vai thiên tử Châu Á!
Trong buổi lễ ký kết 10 văn kiện hòa tan từng phần đất nước Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc, người Hán sử dụng truyền thống "Rút cọng chiếu lác" cướp đất lân bang. Chiến lược này đã có từ thời Hồ Chí Minh (1940), vốn nó đã bào mòn Việt Nam theo thời điểm của năm tháng. Ngày nay nó khởi động cướp lân bang cực kỳ táo bạo. Quả nhiên người dân Việt Nam khó thấy chân dung và không biết sự thật của nó, bởi đảng CSVN che giấu kẻ sát nhân, bằng thủ thuật giết người không hung thủ. Nhờ vậy Trung Hoa thực hiện tinh vi kế sách thu tóm Việt Nam trong 2.467.564 từ, trên 987 trang giấy A4, gồm "10 văn kiện cho phép Trung Hoa được quyền tự do khai thác toàn diện trên lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam". Theo văn kiện đã ký, đảng CSVN chính thức công nhận biển Nam Trung Quốc, thay vì biển Đông của Việt Nam.
Ngày 19/6/2013 Bắc Kinh, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Dương Khiết Trì (杨洁篪) và Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Phạm Bình Minh (范平明), thay mặt đảng, hai ông Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang cùng ký, tay trao cho nhau quyết lệnh văn kiện hợp tác toàn diện đồng khai thách chung, nội dung gồm có (247.756 từ), và bản tuyên bố chung nội dung gồm có 4.012 từ. Nguồn: THX.
Đặc biệt, trong bản văn "Tuyên bố chung", nội dung chứa cả thảy có 4.012 từ, và cô động lại thành 10 đề mục, được trích ra bởi 10 văn kiện điều khoản đảng CSVN bán nước, viết theo ngôn ngữ 北京话 (Bắc Kinh phương ngữ), toàn bộ văn kiện chuyên chở ẩn ngữ của riêng người Hán. Mỗi từ ngữ, một thủ đoạn và cho phép Trung Hoa tung hoành vô hạn định trên đất nước Việt Nam.
Nói chung trong văn bản "Tuyên bố chung" có nội dung nhỏ của "Văn kiện 3" gồm 117 từ, tuy nhiên mỗi từ trong văn kiện lấp ló tinh ma, với sức tàn phá vô lường, giết người còn nguyên tài sản. Nhân dân Việt Nam chỉ đọc được 117 từ, trong "Văn kiện 3" của bản "Tuyên bố chung". Thử hỏi đã có mấy ai đã đọc được 247.639 từ còn lại. Tất cả đều bí mật nằm trong ngăn kéo của đảng CSVN và Trung Cộng, kể cả 14 nhà lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN có mặt tại Bắc Kinh cũng không có tư liệu này để đọc. Quý ông ấy tự cho mình có quyền ký một hồ sơ quan trọng bán nước. Điểm đáng trách ở đây, cả Quốc hội và Nhà nước Việt Nam, không phản ứng trước sự kiện bán nước này, họ đã mặc nhiên can tội đồng loã phản quốc và phản dân tộc Việt Nam.
Trung Cộng công khai độc quyền hành động 10 văn kiện, theo kế hoạch khai thác toàn diện, trên lãnh thổ đất liền biên giới Tây Bắc, Đông Bắc Việt Nam, vùng biển Đông 200 hải lý của Việt Nam vào năm 1974, và Vịnh Bắc Bộ vào năm 1979. Hình dung chung, CSVN đã hợp thức hóa 10 văn kiện có tính pháp lý Quốc tế, đặt nhân dân Việt Nam trước chuyện đã rồi, vì nhân dân Việt Nam hiện nay không có quyền làm chính trị. [1]
Mặc khác đảng CSVN không trung thực trong nội dung bản "Tuyên bố chung". Họ lý giải lệch lạc, loan tải trên các hệ truyền thông của đảng và nhà nước. Họ đã bán nước và không muốn cho nhân dân hiểu rõ tình thế và nghiêm khắc, cấm chế nhân dân biết đến. Một lần nữa CSVN lừa đảo nhân dân. Bản chất truyền thống CSVN bao lâu nay vẫn thế, cần tồn tại để đảng sống còn, họ không bao giờ biết đến nhân bản và xây dựng Việt Nam phú cường. Nếu CSVN thực sự yêu tổ quốc này, sau ngày 30/4/1975, chỉ cần 5 năm Việt Nam đã bắt kịp Nhật Bản như ngày hôm nay.
Chính bản thân "Văn kiện 3" đã phi lý, lại còn bị đảng bóp méo sự thật, tuyên truyền hướng dẫn dư luận theo ý đảng, vì tất cả muốn làm nhẹ mục đích của bản "Tuyên bố chung" ngõ hầu che giấu tính xâm lược của Trung Cộng. Nay đảng CSVN chính thức tiếp nhận lệnh 10 văn kiện đã lên kế hoạch thi hành, rất hớn hở không hề phiền muộn. Trung Hoa áp đặt mọi quyền, khai thác toàn diện Nông nghiệp nguồn sản xuất lương thực trên lưng nhân dân Việt Nam. Khai thác Ngư nghiệp nguồn cá từ khe suối cho đến biển Đông. Khai thác tài nguyên đất liền, biển Đông hốt quặng mõ không bỏ một phân ly đất và biển thiên nhiên. Khai thác toàn lực lao động, đẩy người dân xuống bần cùng sự sống và loại bỏ ra khỏi hang cùng ngõ hẻm cuộc đời.
Khái thác di dân ồ ạt, từ phương Bắc xuống Việt Nam, hầu cướp tài sản của nhân dân Việt Nam sau khi bị làm nô lệ! Cho thấy "Văn kiện 3" quá khủng khiếp, và hoàn toàn không hợp lý về kỹ thuật, khoa học và chuyên môn.
Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) Đỗ Văn Hậu cùng với Chủ tịch Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (中国海洋石油总公司CNPC) Vương Nghị Lâm (王宜林) ký kết nhượng địa, nhượng hải phận vùng biển Vịnh Bắc Bộ và biển Đông cho Trung Quốc. Nguồn: THX.
Đã đến lúc Việt Nam rỉ máu, toàn dân đau đớn nhiều và khắc khoải trước "Văn kiện 3":
"‒ Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung-Việt thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp thiết lập một (đường dây nóng hoạt động đánh bắt cá trên biển phát sinh trường hợp khẩn cấp) - 农业和农村发展部, 越南和中国农业部部之间的协议设立热线捕鱼活动对海洋产生的突发事件.
Tăng cường sự phối hợp chiến lược song phương phát triển kinh tế, nắm bắt thực hiện "thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam và hợp tác kinh tế từ năm 2012 đến năm 2016, kế hoạch phát triển năm (5) năm" để thúc đẩy (giao thông, năng lượng, nông nghiệp, sản xuất, dịch vụ và các khu vực khác), để khám phá việc thực hiện các dự án hợp tác trong (cơ sở hạ tầng), khả năng tương tác. Các biện pháp hiệu quả để thúc đẩy sự tăng trưởng ổn định của (cán cân thương mại song phương), và phấn đấu để đạt được vào năm (2015 trước 60 tỷ USD mục tiêu thương mại song phương) - 三是加强两国经济发展战略协调,抓紧落实"中越2012-2016 年经贸合作五年发展规划", 推进交通, 能源, 农业, 加工制造, 服务业等领域合作, 探讨实施基础设施互联互通合作项目. 采取有效措施, 推动双边贸易平衡稳定增长, 争取提前实现2015年双边贸易额600亿美元的目标. 越方欢迎中国企业投资". [2]
Ngày 20/6/2013 Bắc Kinh. Buổi lễ ký kết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Cao Đức Phát, và ông Bộ Nông nghiệp Trung Quốc Dương Kiệt (杨杰) ký kết "thiết lập tình trạng khẩn cấp hàng hải liên hệ với đường dây nóng biển Nam Trung Quốc. Nguồn: THX.
Đảng CSVN vui mừng vội vã khẳng định:
"Phía Việt Nam hoan nghênh Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam, hài lòng với sự phát triển của mối quan hệ giữa hai bên trong những năm gần đây, hai bên đã nhất trí tăng cường hợp tác và (thúc đẩy hợp tác hai Quân Ủy Trung Ương), trao đổi và giao lưu cấp lãnh đạo Quốc phòng). Tuyên truyền đến các khu vực bên ngoài và hoạt động (trơn tru ngoại tệ) và (cơ chế hợp tác để tăng cường đảng và cán bộ), (hợp tác đào tạo của chính phủ). Hai bên nhất trí hợp tác chặt chẽ, trao đổi kinh nghiệm. Đảng và nhà nước tăng cường hơn nữa.
Mở rộng hợp tác kinh tế và thương mại. Khối lượng thương mại song phương tăng lên từng năm, trong chín (9) năm tới Trung Quốc liên tục trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Khối lượng thương mại song phương năm ngoái vượt quá $ 40.000.000.000, năm (5) tháng đầu năm nay đạt $ 18.900.000.000, tăng 37,3%. Dự phóng của hai nhà nước đến năm 2015, đạt $ 60.000.000.000. Mục tiêu thương mại dự kiến sẽ lên lịch trình thực hiện. Hai bên đã ký "thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam và hợp tác kinh tế 2012-2016, kế hoạch phát triển (năm năm).
Việt Nam đang rơi vào cạm bẫy phát triển của Trung Quốc, đã ký kết kế hoạch năm năm 2012-2016, giúp Trung Quốc trong ý đồ tóm thâu gọn ghẽ nước Việt Nam. Trong "Văn kiện 3". Trung Hoa còn lắm lời dọa nạt "trên đe dưới búa" với những ai "bội ước":
"‒ Hãy ghi nhớ, và thận trọng mọi sự hiểu biết lẫn nhau. Trong văn kiện có những mục thư và danh sách của các dự án, hợp tác trọng điểm thương mại, nông nghiệp và ngư nghiệp. Tích cực, thúc đẩy, bảo vệ các khu vực hợp tác khai thác của Trung Quốc tại Việt Nam. Liên tục thúc đẩy "Hai hành lang, một vành đai lớn". Đã được thảo luận và ký kết văn kiệt hợp tác xây dựng dự án Bằng Tường nơi kết nối đường cao tốc Nam Ninh Trung Quốc và Hà Nội Việt Nam".[3] Hai bên đồng thi hành, "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông" (DOC), Trung-Việt cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông".
"Hai bên nhất trí quyết không để các tranh chấp trên biển, giữ bình tĩnh và kiềm chế các tranh chấp khác, không chấp nhận sự phản đối của nhân dân Việt Nam, nó sẽ làm phức tạp hoặc leo thang hành động. Trong khi đó hai Bộ Ngoại giao của hai nước, kiểm soát tốt đường dây nóng, bảo đảm không có những khủng hoảng trên đường hàng hải, mọi thái độ khiêu khích của nhân dân đều được loại bỏ, và xử lý đúng lúc, tránh các vấn đề làm ảnh hưởng tình hình chung của quan hệ hai bên. Hai bên nhất trí thực hiện đầy đủ và hiệu quả".
Thực chất Trung Hoa ra lệnh dạy bảo đảng CSVN phải bảo vệ biển Đông, không cho nhân dân xuống đường phản đối, để tình hình chính trị ổn định, Trung Hoa an lòng khai thác tài nguyên và phát triển căn cứ hải quân tại biển Nam Trung Quốc.
Đáng chú ý hơn nữa, trong văn kiện ghi rõ hai bên sẽ tiếp tục thực hiện "Hiệp định hợp tác nghề đánh bắt cá tại Vịnh Bắc Bộ". Sau cuộc chiến ngày 17/2/1979, Vịnh Bắc Bộ đã bị Trung Hoa hoàn toàn kiểm soát, đội thuyền ngư nghiệp Hải Nam làm chủ mặt biển của Vịnh Bắc Bộ, khai thác đánh bắt cá cho đến nay. Nhân dịp này, Trung Hoa khẳng định lại vị trí chủ quyền Vịnh Bắc Bộ không còn của Việt Nam, và Trung Hoa khuyến thưởng đảng CSVN nên "tích cực khám phá cách khai thác mới trên lưng nhân dân, cùng nhau kiểm tra ngư nghiệp. Đồng thời Trung Quốc và Việt Nam thành lập khẩn cấp đường dây nóng cho (biển trường ngư nghiệp) hầu xử lý song phương, đúng đắn, phù hợp tinh thần thân thiện của mối quan hệ lâu đời".
Biển Đông của Việt Nam thực sự đã trải qua nhiều tranh chấp với Trung Quốc vào năm 1974 cho đến thời điểm này. Ngày nay Trung Hoa mới hài lòng, mừng vui cộng bố "Biển Nam Trung Quốc và Vịnh Bắc Bộ từ nay thực sự yên lặng". Nhân dân Việt Nam sẽ thấy sự yên lặng này quá lạ lùng, bởi đã lên kế hoạch, tính toán chu toàn giữa Trung Hoa và Việt Cộng. Nhờ tìm những giải pháp xử lý nhanh, tránh mọi tranh chấp trên biển và thủy sản, riêng khai thác dầu khí, cũng không còn đề cập đến danh dự của "Biển Đông" nó đã có ngôn ngữ của người lạ "Biển Nam Trung Quốc", trong 10 văn kiện được đề cập trong bản "Tuyên bố chung" đều vắng bóng biển Đông. Có đôi điều trong ngàn điều sai ngoa trong "Tuyên bố chung", chưa nói đến những đại diện của đảng CSVN đã ký vào 10 Văn kiện mờ ám. Tại sao việc thỏa thuận thành lập khẩn cấp đường dây nóng cho những khai thác Dầu khí và Ngư nghiệp lại thông qua bởi Bộ Nông nghiệp, Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc ?
Ngư nghiệp và Nông nghiệp hai ngành khác nhau về môi sinh, súc vật, thảo mộc sống trên mặt đất có Thiên đàng. Thủy tộc, thủy thảo sống dưới nước có Diêm la, nay bỗng nhiên trâu, bò, lợn, gà, vịt, chó, mèo, cây, cỏ v.v… phải vâng lời đảng CS đổi môi trường sống!
Lập đường dây nóng có một lý cơ khác, và nuôi dưỡng ý đồ lâu dài chờ ngày Trung Hoa nuốt trọn vẹn biên Đông của Việt Nam.
Kết quả, ông Trương Tấn Sang hối hả công nhận 10 văn kiện khai thác toàn diện trên lãnh thổ Việt Nam. Cụm từ "khai thác toàn diện" thay cho cụm từ "văn kiện bán nước". Trong văn kiện này không có một từ ngữ nào cho phép Việt Nam khai thác tài nguyên trên lãnh thổ Trung Quốc. Ông Trương Tấn Sang thay mặt 47 đồng chí đảng CS làm việc trong 48 giờ, ký 10 văn kiện vào ngày 19-20/6/2013. Nội dung ghi chép đầy đủ những thỏa thuận đi đêm và ngầm không được tiết lộ ra ngoài để bảo đảm cho sự khai thác toàn diện, theo ý của Trung Cộng, vì vậy nội dung cụ thể không ai được biết đến, kể cả những người trong Bộ Chính Trị Đảng CSVN cũng bị giới hạn.
Bộ Trưởng Nông nghiệp kim nhiệm Bộ Phát triển nông thôn Cao Đức Phát, thay mặt đảng CSVN, ký kết vào "Văn kiện 3", vừa buông bút xuống bàn, ông liền truyên bố rằng:
"Hiệp định Biển Nam Trung Quốc, đã đảm bảo cho Việt Nam, về mặt ngư dân trên biển được an toàn đánh bắt cá hợp pháp và lợi ích hợp pháp, để tránh tai nạn, ảnh hưởng đến cuộc sống song phương của ngư dân. Vì vậy, Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn đã có một số sự đồng thuận đáng kể về vấn đề thủy sản ".
Thì ra ông Cao Đức Phát không biết gì về nội dung của "Văn kiện 3", ông mới thấy mặt văn kiện mà không thấy nội dung thâm hiểm để rồi tuyên bố bừa bãi, một lãnh đạo của đảng CSVN, tuyên bố quá bất lợi cho hiện tình đất nước hôm nay và tương lai của Việt Nam.
Lại xuất hiện thêm một nhân vật tình báo Hoa Nam thứ thiệt, sinh sống tại Hà Nội từ bé đến lớn, nằm vùng trong giới trí thức Việt Nam. Với cái hiệu Học giả, sử gia, tên Việt Nam (Vũ Cao Phan), tên Tàu (武高潘).
Học giả Vũ Cao Phan (武高潘). Nguồn: Tình báo Hoa Nam.
Nhân dịp này, ông ta xuất hiện và tiết lộ:
‒ Tôi là thành viên Hội hữu nghị Trung Quốc-Việt Nam, trong nhiều năm hoạt động và công công tác chặt chẽ với Trung Quốc, có nhiều mối quan hệ tình cảm, tôi có thể thành thật nói rằng tôi yêu Trung Quốc, khâm phục Trung Quốc và thậm chí có thể được cho là thân Trung Quốc. [4]
Vũ Cao Phan phát biểu tiếp:
‒ Mối quan hệ Trung-Việt thậm chí phải là một quan hệ đối tác đặc biệt, vì chúng ta có nền văn hóa và cùng lịch sử, không thể tách rời, một khi đã là nước láng giềng thân thiện thông qua dày và mỏng. Tôi cũng là một người lính trong chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ không bao giờ quên cảm xúc của riêng cá nhân của họ và hưởng lợi trực tiếp người dân Trung Quốc trong vũ khí, lương thực trên sự thật và trợ giúp vô vị lợi.
Hôm nay, chúng tôi đi cùng nhau trong cải cách và mở cửa phát triển kinh tế trên đường dài. Đối với những lý do này chỉ đủ để giữ cho mối quan hệ song phương trở nên quý giá và đặc biệt.
Những kẻ bán nước như nhà trí thức học giả, sử gia Vũ Cao Phan quá đông không thể nào đếm hết. Ở thời điểm này sĩ phu, trí thức yêu nước lại quá hiếm hoi, họ là những tinh anh của dân tộc. Họ vẫn đầy nhiệt huyết không bao giờ tuyệt vọng, rất tin tưởng vào lửa trong lòng dân Việt, và hy vọng ở tuổi trẻ của tương lai.
Trong buổi khánh tiết do Bộ Ngoại giao Trung Hoa khoản đãi, mời các nhà ngoại giao Quốc tế, cộng đồng Việt kiều gốc Hoa và những hội đoàn ngoại vi của Trung-Việt đồng tham dự, vui mừng kết quả cuộc đấu giá bán nước. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu:
‒ Cảm ơn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc, và Hội Hữu nghị Trung-Việt đã phối hợp tổ chức, vui mừng cuộc gặp gỡ nhiều ý nghĩa này.
ÿ Huỳnh Tâm
Tham khảo:
[2] 越南国家主席张晋创像